Hội thảo khoa học: Kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế

Hội thảo khoa học: Kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế có sự tham dự của nhiều chuyên gia kinh tế.
Hội thảo có sự hiện diện và tham gia thảo luận của đại diện một số cơ quan Đảng, bộ, ngành, các chuyên gia kinh tế đầu ngành, đại diện Hội và hiệp hội, đại diện ngân hàng, doanh nhân tư nhân…
Bên cạnh các bài tham luận riêng từ đại diện cơ quan Đảng, các chuyên gia và đại diện hiệp hội,… Hội thảo cũng tập trung thảo luận các nhóm vấn đề chính như cơ hội, tiềm năng, thách thức của kinh tế tư nhân trong sứ mệnh một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế, cũng như việc thể chế hóa đầy đủ và khoa học Nghị quyết 68/NQ-TW vào thực tiễn trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Quang cảnh Hội thảo khoa học: Kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế có sự tham dự của nhiều chuyên gia kinh tế - Ảnh BTC.
Khai mạc Hội thảo
Năm 2024, kinh tế Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng 7,09%, vượt mục tiêu đề ra và tiếp tục được nhận định là điểm sáng của khu vực châu Á. Mặc dù vậy, bước sang năm 2025, nhiều thách thức lớn như đà tăng trưởng giảm tốc của kinh tế thế giới, chiến tranh thương mại và sự nổi lên của chủ nghĩa bảo hộ, nguy cơ đứt gãy các chuỗi cung ứng… đang mang đến những rủi ro tiềm ẩn cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam.
Trong bối cảnh đó, ngày 4/5/2025, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 68 về phát triển kinh tế tư nhân, lần đầu tiên xác định kinh tế tư nhân là “một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia; là lực lượng tiên phong trong phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số…”, “giữ vai trò nòng cốt để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường...”, đặt ra tầm nhìn chiến lược và các mục tiêu đầy tham vọng.
Trên tinh thần Nghị quyết 68, Quốc hội và Chính phủ đã nhanh chóng ban hành các Nghị quyết quan trọng về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển kinh tế tư nhân; với hàng loạt nội dung quan trọng về cải thiện môi trường kinh doanh; hỗ trợ tiếp cận đất đai, mặt bằng sản xuất kinh doanh; hỗ trợ tài chính, tín dụng; hỗ trợ khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và đào tạo nhân lực; hỗ trợ hình thành doanh nghiệp vừa và lớn, doanh nghiệp tiên phong….
Nhận thấy Nghị quyết 68 và các Nghị quyết triển khai thực hiện có tầm quan trọng to lớn, mở ra bước ngoặt lịch sử để thúc đẩy sự vươn mình đột phá của kinh tế tư nhân; đồng thời mong muốn góp phần đưa chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đi vào cuộc sống để khai phóng, khơi thông mọi điểm nghẽn cho khu vực kinh tế tư nhân, đóng góp mạnh mẽ hơn vào tăng trưởng kinh tế đất nước, tạo đòn bẩy cho một Việt Nam thịnh vượng; Hội Doanh nhân Tư nhân Việt Nam chủ trì Hội thảo khoa học với chủ đề “Kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế”.
PGS.TS Nguyễn Trọng Điều, nguyên: Thứ trưởng Bộ Nội vụ, Phó Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Giám đốc Học viện Hành chính Quốc gia; nay là Chủ tịch Hội Doanh nhân Tư nhân Việt Nam phát biểu khai mạc Hội thảo.
Phát biểu khai mạc và định hướng khoa học tại Hội nghị, PGS.TS Nguyễn Trọng Điều, nguyên: Thứ trưởng Bộ Nội vụ, Phó Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Giám đốc Học viện Hành chính Quốc gia; nay là Chủ tịch Hội Doanh nhân Tư nhân Việt Nam nhận định: "Ngày 4/5/2025, Tổng Bí thư Tô Lâm đã ký ban hành Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân. Nghị quyết đã nhanh chóng được cả hệ thống chính trị, toàn dân, doanh nghiệp đón nhận. Ngay sau khi Nghị quyết ra đời, trong giới nghiên cứu khoa học về lãnh đạo và quản lý, giới doanh nhân, các chuyên gia kinh tế đã rất nhanh chóng chia sẻ với nhau để cùng nghiên cứu, tìm hiểu và trao đổi nhận thức. Chúng tôi nhận thấy rằng, đây là một Nghị quyết có tầm quan trọng to lớn, mở ra bước ngoặt lịch sử để thúc đẩy sự vươn mình đột phá của KTTN".
Trong niềm hân hoan của giới doanh nhân, giới khoa học và giới lãnh đạo - quản lý, Nghị quyết 68 đã được coi như phát pháo lệnh cho một cuộc cách mạng không chỉ với kinh tế tư nhân, không chỉ với nền kinh tế, mà cả về chiến lược quản trị quốc gia, kiến tạo tương lai cường thịnh cho dân tộc Việt Nam.
Đã có nhiều ý kiến gọi đây là “Đổi mới lần 2”, “cột mốc lịch sử”, “bước đột phá”. Lần đầu tiên trong lịch sử, kinh tế tư nhân - khu vực từng phải đổi mặt với nhiều băn khoăn, nghi ngại - được đặt vào vị trí trung tâm của nền công vụ kiến tạo, phục vụ. Lần đầu tiên trong lịch sử, kinh tế tư nhân được trao trọng trách là “một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế”. Và tôi cũng nhận thấy rằng, hiếm thấy Nghị quyết nào của Đảng có tính chi tiết và hướng dẫn thực thi cao đến như vậy.
Tuy nhiên, cũng như mọi tư tưởng đột phá khác trong lịch sử, chắc chắn Nghị quyết cần được nghiên cứu, phản biện, thảo luận và trao đổi để từng bước cùng với hệ thống chính trị, nhân dân cũng như các doanh nhân nâng cao và thống nhất nhận thức, từ đó thống nhất hành động, đưa Nghị quyết vào cuộc sống và thực thi hiệu lực, hiệu quả các nhóm nhiệm vụ - giải pháp mà Nghị quyết nêu để đạt được các mục tiêu đầy tham vọng mà Nghị quyết đã nhấn mạnh.
Cùng với đó, đây là một Nghị quyết có tầm nhìn lớn, phạm vi điều chỉnh rộng, được thiết kế hết sức toàn diện và đồng bộ, liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, vai trò của nhiều cơ quan, tổ chức, lĩnh vực, ngành nghề; và đặc biệt là đề cập đến nhiều vấn đề cội rễ của thể chế, sứ mạng cốt lõi của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, chiến lược phát triển và quản trị quốc gia trong giai đoạn lịch sử đầy biến động và đầy thách thức của thế giới. Đồng thời, những tư duy đột phá đặt ra những yêu cầu đặc biệt quan trọng cho nhiệm vụ thể chế hóa, tổ chức thực hiện để Nghị quyết thực sự trở thành sợi chỉ đỏ dẫn dắt nhận thức và hành động của cả dân tộc, mà không để tạo ra những lỗ hổng mới trong chính sách và pháp luật, không dẫn đến những xung đột lợi ích trong các khu vực kinh tế, hay giữa doanh nhân với xã hội nói chung; để tầm nhìn, triết lý của Nghị quyết được cụ thể hóa một cách đúng đắn, chặt chẽ, bài bản, đồng bộ và hơn hết là phụng sự mục tiêu tối thượng là sự phát triển lớn mạnh của đất nước, sự thịnh vượng và hạnh phúc của nhân dân.
Với sự hiện diện, đóng góp đầy trí tuệ, trách nhiệm của các quý vị lãnh đạo, đại diện các cơ quan ban, bộ, ngành Trung ương; các nhà khoa học, nhà nghiên cứu hàng, nhà trí thức hàng đầu Việt Nam; lãnh đạo và đại diện các Hội, Hiệp hội, tổ chức đại diện cho doanh nhân, doanh nghiệp; các doanh nhân, và đông đảo đại diện các cơ quan thông tấn, truyền hình, báo chí, tôi tin rằng chúng ta có thể góp phần làm sâu sắc hơn nhận thức về Nghị quyết, đồng thời có những tranh biện, hàm ý, gợi mở có hàm lượng khoa học cao cho công tác thể chế hóa và tổ chức thực hiện Nghị quyết, PGS.TS Nguyễn Trọng Điều nhấn mạnh.
Bà Nguyễn Thị Nga - Phó chủ tịch thường trực Hội Doanh nhân tư nhân Việt Nam, Chủ tịch Tập đoàn BRG phát biểu tại Hội thảo - Ảnh BTC.
Ngay sau phát biểu khai mạc của PGS.TS Nguyễn Trọng Điều - Chủ tịch Hội Doanh nhân Tư nhân Việt Nam, bà Nguyễn Thị Nga - Phó chủ tịch thường trực Hội Doanh nhân tư nhân Việt Nam, Chủ tịch Tập đoàn BRG đã có những chia sẻ rất đáng chú ý.
Là một doanh nhân bước vào nền kinh tế từ hơn 30 năm nay, xây dựng nên một tập đoàn kinh tế tư nhân với hàng vạn nhân lực, lớn mạnh cùng đất nước đến ngày hôm nay, tôi rất vui mừng, phấn khởi khi đón nhận những tư tưởng mới mẻ, đột phá trong Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị. Nghị quyết đã nhìn thẳng vào thực tế khối kinh tế tư nhân, từ những đóng góp to lớn của kinh tế tư nhân vào GDP, thu ngân sách, tạo việc làm; đến những tồn tại cố hữu, nguyên nhân và giải pháp.
Thực tế, với sự ưu đãi, khuyến khích dành cho khối FDI trong vài thập kỷ qua, khối kinh tế tư nhân trong nước đang bị mất sức cạnh tranh và hiển hiện nguy cơ đánh mất mình ngay trên sân nhà, dù vẫn đang đóng góp đến gần 60% vào GDP, so với mức trên dưới 20% của khối FDI.
FDI hiện đang chiếm đến 2/3 tỷ trọng xuất khẩu của Việt Nam. Tuy nhiên, hoạt động của các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam hiện tập trung vào giai đoạn gia công, lắp ráp mang lại giá trị gia tăng thấp, ưu tiên khai thác nguồn lao động giá rẻ hơn là mở rộng và phát triển hoạt động kinh doanh cốt lõi tại Việt Nam.
Ngược lại, khối tư nhân còn tiềm năng dồi dào, dư địa phát triển rất lớn, từ các DN lớn, đến nhóm vừa và nhỏ.
Nghị quyết 68, cùng với các Nghị quyết thức thời khác trong thời gian qua như Nghị quyết số 57 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Nghị quyết số 59 về “Hội nhập quốc tế trong tình hình mới;” Nghị quyết số 66 về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới đã mang lại động lực, cảm hứng và niềm tin lớn lao cho giới doanh nhân chúng tôi trong công cuộc chung phát triển kinh doanh, góp phần phát triển đất nước và thực hiện trách nhiệm xã hội của mỗi doanh nhân, bà Nguyễn Thị Nga nhận định.
Cũng theo Phó chủ tịch thường trực Hội Doanh nhân tư nhân Việt Nam, Chủ tịch Tập đoàn BRG, thời gian qua, trong các dịp được tiếp xúc và làm việc với các đồng chí lãnh đạo cấp cao Đảng và Nhà nước, chúng tôi nhân thấy rõ nét quyết tâm chính trị cao độ, bầu không khí khẩn trương trong nghiên cứu, ban hành và tổ chức triển khai thực hiện các thay đổi. Mới đây nhất, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 198 về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển kinh tế tư nhân có hiệu lực thi hành ngay. Chính phủ cũng ban hành hàng loạt nghị quyết đồng bộ về kế hoạch triển khai thực hiện Nghị quyết 68 và kế hoạch triển khai một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển kinh tế tư nhân. Chúng tôi cảm thấy như đang được sống và lao động, cống hiến trong thời khắc lịch sử của thời kỳ Đổi mới lần thứ 2.
Tuy nhiên, chúng tôi cũng nhận thấy rằng việc thể chế hóa đầy đủ, toàn diện và khoa học Nghị quyết 68 vẫn cần được thực thi một cách bài bản, là yếu tố cốt lõi để Nghị quyết 68 đi vào cuộc sống, giúp các doanh nhân yên tâm đầu tư phát triển kinh doanh, làm giàu chính đáng, đóng góp tích cực cho sự phát triển chung của đất nước để xứng đáng với sứ mạng là “một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế”.
Chính vì vậy, tôi rất tâm đắc với ý tưởng tổ chức Hội thảo khoa học này. Tin rằng, với sự tham gia đầy trách nhiệm và trí tuệ của đông đảo các nhà lãnh đạo, quản lý, nhà khoa học, đại diện các hội, hiệp hội và các doanh nhân, các góc cạnh khoa học của Nghị quyết và nhiệm vụ thể chế hóa nghị quyết sẽ được thảo luận một cách sâu sắc, chất lượng, đóng góp trí tuệ và kế sách vào công tác hoạch định pháp luật của các cơ quan làm luật và thực thi, Chủ tịch Tập đoàn BRG chia sẻ.
Tham luận - Thảo luận
PGS.TS Trần Đình Thiên, Nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, Thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách của Thủ tướng Chính phủ phát biểu tham luận tại Hội thảo.
Tham luận đầu tiên của Hội thảo được PGS.TS Trần Đình Thiên, Nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, Thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách của Thủ tướng Chính phủ trình bày với chủ đề “Vai trò, tầm nhìn và định hướng phát triển Kinh tế tư nhân trong giai đoạn tới”.

10 công ty lớn nhất trong S&P 500 theo thập kỷ - Tham luận của PGS.TS Trần Đình Thiên.
Theo PGS.TS Trần Đình Thiên, chúng ta có một cái lịch sử hành trình của kinh tế tư nhân chính thống là 40 năm. Lịch sử hình thành khá dài cho đến bây giờ thì vai trò của KTTN mới được khẳng định. Như vậy chúng ta mất khá nhiều thời gian, tuy nhiên Nghị quyết 68 mới đã không chỉ khẳng định mà sẽ định hình sứ mệnh của các doanh nhân. Nghị quyết mới cũng sẽ thay đổi thái độ ứng xử, cơ chế chính sách cho cái khu vực kinh tế tư nhân. Hay nói rộng hơn nữa là cái cách chúng ta cái cái thái độ ứng xử đối với kinh tế thị trường đúng nghĩa của nó.
Với thái độ như vậy, nhận thức như vậy có thể nói vòng kim cô cho doanh nghiệp tư nhân đã được cởi bỏ và phải làm việc này thật triệt để. Cùng với đó là việc các doanh nghiệp nhà nước có thể dẫn dắt hay đồng hành cùng kinh tế tư nhân. Cùng với đó là đào tạo, dẫn dắt để khu vực KTTN có thể lớn mạnh hơn nữa. Đặc biệt là những chính sách phát triển khu vực này phải khác biệt so với trước đây.
Ông Đậu Anh Tuấn, Phó Tổng Thư ký, Trưởng ban Pháp chế Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) trình bày tham luận tại Hội thảo - Ảnh BTC.
Tiếp ngay sau tham luận của PGS.TS Trần Đình Thiên, ông Đậu Anh Tuấn, Phó Tổng Thư ký, Trưởng ban Pháp chế Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) trình bày tham luận với nội dung “Phát triển Doanh nghiệp tư nhân – Nhìn từ quy trình đầu tư dự án có sử dụng đất”.
Theo ông Đậu Anh Tuấn, vấn đề cấp thiết nhất hiện tại làm sao thủ tục rút ngắn, để vốn vào nền kinh tế nhanh nhất. Phải vì rõ ràng đang gặp vấn đề doanh nghiệp đang rất muốn đầu tư, nhà đầu tư cũng muốn nhưng quy trình thủ tục lâu quá. Chính vì thế, ngay sau khi có NQ 66-68, VCCI tiến hành rà soát vướng mắc, mong muốn sửa đổi từ Chính phủ sửa đổi.
Để một doanh nghiệp đầu tư vào những dự án sử dụng đất thì phải từ quy hoạch chung, phân khu, đến chấp thuận chủ trương đầu tư, lựa chọn nhà đầu tư, thủ tục đất đai, cho thuê đất ….
Thủ tục hiện rất là phức tạp, liên quan đến ít nhất 15 thủ tục rất, kèm theo rất nhiều thủ tục nhỏ, bản thân các doanh nghiệp cũng phải đi chạy, quy trình phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau, liên quan nhiều chính quyền các cấp khác nhau,...
Thực ra, có rất nhiều thủ tục có thể cải cách và điều chỉnh ngay được. Theo tôi thấy gần đây, Thủ tướng Phạm Minh Chính nói rất nhiều về việc tại sao chúng ta có quy hoạch chi tiết rồi, đã đầu tư vào khu công nghiệp, thậm chí đã có đánh giá về tác động môi trường rồi, mà tại sao mỗi dự án vào lại phải xử lý lại từ đầu, như vậy lãng phí về mặt thủ tục.
Thậm chí Thủ tướng từng đề cập nếu có tiêu chuẩn cụ thể rồi, thì nhà đầu tư có thể thực hiện trước và Chính phủ có thể giám sát và hậu kiểm.
Một điểm thay đổi nổi bật là sửa 4 luật về đầu tư vừa thông qua vào tháng 1. Trong đó, có thủ tục đầu tư đặc biệt, thực hiện theo quy trình hậu kiểm, nhà đầu tư chỉ cần có tổ chức tư vấn đầu tư được nhà nước xác nhận, và có thể triển khai và Nhà nước có thể giám sát chỉ mất thủ tục ngắn thôi.
Tuy nhiên, đáng tiếc, mô hình đầu tư đặc biệt đang dần triển khai, và chỉ áp dụng cho nhà đầu tư công nghệ cao, mong muốn mở rộng ra trong thời gian tới, có thể mở rộng những dự án khác, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất của doanh nghiệp tư nhân. Có lẽ, điều này sẽ tạo ra cú hích quan trọng đối với kinh tế tư nhân trong thời gian tới.
Trong nghiên cứu của VCCI hằng năm, chúng tôi tiến hành điều tra 14.000 doanh nghiệp tại 63 tỉnh thành, có hỏi dn năm vừa rồi có thực hiện các quy trình đầu tư đất đai hay không? Đây là nhóm thủ tục được các doanh nghiệp phản ánh là khó, đặc biệt về thủ tục đất đai, 74% doanh nghiệp cho rằng họ phải trì hoãn hoặc hủy bỏ kinh tế tư nhân do gặp khó khăn về thủ tục hành chính liên quan đến đất đai. Bên cạnh đó, 67% doanh nghiệp cho rằng thời gian giải quyết dài hơn so với quy định.
Một điều mà các doanh nghiệp cần là làm sao chúng ta phải cải cách quy tình, giúp doanh nghiệp thuận lợi hơn, dễ dàng hoạt động và cách thức quản lý thông minh hơn. Hiện tại có nhiều quy định mâu thuẫn chồng chéo, mặc dù có luật đất đai mới, có luật xây dựng, song bản thân các quy định pháp luật mới ban hành trên thực tiễn thực hiện tại các địa phương vẫn đang vướng mắc, thủ tục chưa đủ rõ ràng.
Thời gian tới, bên cạnh tinh thần nghị quyết 68 rất quan trọng, rất đột phá rồi, sau này hành động cụ thể của cơ quan quốc hội, chính phủ cần phải mạnh mẽ hơn, cần phải đột phá để làm sao vốn chảy nhanh chóng vào nền kinh tế, thủ tục đưa vốn vào nền kinh tế nhanh hơn.
Bên cạnh rà soát về chỉnh sửa, cần có cách tiếp cận tư duy khác. Thậm chí sắp tới, chúng ta có thể bỏ một số luật và cải tiến mạnh mẽ những bộ luật còn lại trong thời gian tới.
TS. Phan Đức Hiếu, Ủy viên Thường trực Ủy ban Kinh tế của Quốc hội phát biểu tại Hội nghị - Ảnh BTC.
Ngay sau 2 tham luận của các diễn giả là phần thảo luận của Hội thảo Khoa học ‘Kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế’.
Chủ trì phiên thảo luận là PGS.TS Nguyễn Trọng Điều cùng các diễn giả: TS. Phan Đức Hiếu, Ủy viên Thường trực Ủy ban Kinh tế của Quốc hội; Ông Hoàng Quang Phòng, Phó Chủ tịch Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI); PGS.TS Trần Đình Thiên, Nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, Thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách của Thủ tướng Chính phủ; TS Lê Xuân Nghĩa, Thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia, Nguyên Phó Chủ tịch Uỷ ban Giám sát Tài chính quốc gia; TS Trần Thị Hồng Minh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược, Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương; Ông Đậu Anh Tuấn, Phó Tổng Thư ký, Trưởng ban Pháp chế Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI); TS Nguyễn Văn Đính, Phó Chủ tịch Hiệp hội Bất động sản Việt Nam (VNREA), Chủ tịch Hội Môi giới Bất động sản Việt Nam (VARS); TS Nguyễn Bá Hùng, Kinh tế trưởng Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) tại Việt Nam; Ông Nguyễn Quang Thuân, Nhà sáng lập kiêm Chủ tịch HĐQT Fiingroup, Chủ tịch HĐQT Công ty xếp hạng đánh giá tín nhiệm FiinRatings cùng các thành viên lãnh đạo hội Doanh nhân tư nhân Việt Nam.
Theo TS. Phan Đức Hiếu, để thực thi hai nghị quyết đòi hỏi nỗ lực của chính phủ và song hành của doanh nghiệp. Trước đây, thủ tục phức tạp là cái khiên bảo vệ doanh nghiệp khỏi sự cạnh tranh. Do đó, khi cải cách thủ tục trở nên đơn giản, nhà đầu tư trẻ có năng lực sẽ gia nhập thị trường, cạnh tranh sẽ khốc liệt hơn. Trước nhờ bảo vệ ngược của thể chế thì nay mất đi doanh nghiệp sẽ dễ bị tổn thương. Do đó, không chịu cải cách, thay đổi tự nâng cao năng lực thì doanh nghiệp sẽ bị đào thải.
Các hiệp hội có vai trò rất quan trọng. Có những việc nhà nước không thể làm tốt hơn hiệp hội. Các hiệp hội triển khai thiết thực hơn rất nhiều trong việc kết nối doanh nghiệp, kết nối cung cầu, đào tạo nâng cao năng lực doanh nghiệp, sàng lọc doanh nghiệp. Khi hiệp hội khẳng định được vị trí của mình, một số chức năng của nhà nước như cấp chứng chỉ có thể giao cho hiệp hội,…
Ông Hoàng Quang Phòng, Phó Chủ tịch Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) chia sẻ tại phiên thảo luận - Ảnh BTC.
Theo Ông Hoàng Quang Phòng, Phó Chủ tịch Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), sứ mệnh của chúng ta là đồng hành, thúc đẩy và kiến tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển, đặc biệt là khối doanh nghiệp tư nhân, vốn được xem là động lực quan trọng nhất của nền kinh tế thị trường.
Tại hội thảo lần này, các nội dung được trình bày bởi PGS.TS Trần Đình Thiên, ông Đậu Anh Tuấn và ông Phạm Đình Hữu đã nêu bật nhiều vấn đề cốt lõi, phản ánh đúng mối quan tâm của cộng đồng doanh nghiệp. Chúng ta – những người trong cuộc cần chủ động chỉ ra những vướng mắc, kiến nghị điều chỉnh chính sách và đề xuất giải pháp cụ thể về thể chế, pháp luật và điều kiện thực thi.
Hiện nay, cả nước có hơn 940.000 doanh nghiệp đang hoạt động, tuy nhiên phần lớn là doanh nghiệp nhỏ, vừa và siêu nhỏ, đây là nhóm dễ tổn thương trước mọi biến động của thị trường, thời tiết hay dịch bệnh. Dù mục tiêu đến năm 2020 là có 1 triệu doanh nghiệp, nhưng đến nay vẫn chưa đạt được. Đây là minh chứng rõ ràng cho những khó khăn trong việc thành lập và duy trì hoạt động doanh nghiệp.
Về mặt pháp luật, nhiều văn bản đã được ban hành nhưng chưa thực sự đi vào cuộc sống. Đơn cử, Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa có nhiều điểm bất cập, cần được sửa đổi để có thể áp dụng hiệu quả. Các nghị quyết quan trọng như Nghị quyết 57 (về đổi mới sáng tạo), 59 (về hội nhập quốc tế), 66 (về xây dựng pháp luật), hay 68 (về phát triển kinh tế tư nhân) đã xác định rõ doanh nghiệp tư nhân là lực lượng nòng cốt. Tuy nhiên, từ chủ trương đến thực tiễn vẫn còn khoảng cách.
Theo khảo sát hằng năm của chúng tôi, những rào cản lớn nhất hiện nay nằm ở thể chế và môi trường kinh doanh. Các ý kiến thu thập được đều được tổng hợp và báo cáo định kỳ với Thủ tướng, Chính phủ và các bộ, ngành. Đáng tiếc, dù đã phát hiện được nhiều vấn đề, phần kiến nghị và giải pháp cụ thể để xử lý vẫn còn chưa đầy đủ.
Để doanh nghiệp phát triển, không thể thiếu các chính sách nuôi dưỡng, bảo vệ và hỗ trợ từ đào tạo nhân lực, xây dựng vườn ươm, đến tạo điều kiện tiếp cận tài chính và thị trường. Việc hội nhập quốc tế đặt ra yêu cầu cao hơn về năng lực cạnh tranh, sáng tạo và khả năng thích ứng. Hiện đã có những doanh nghiệp tư nhân Việt Nam vươn ra quốc tế, nhưng vẫn còn đơn lẻ, ngành hàng chưa đa dạng và giá trị gia tăng còn thấp.
Chúng tôi kỳ vọng các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ, tích cực đóng góp ý kiến dù là những phát hiện nhỏ cũng sẽ là chất liệu quan trọng để truyền cảm hứng và hoàn thiện chính sách. Mỗi hội thảo, mỗi chuyên đề cần tập trung vào vấn đề cụ thể, ưu tiên rõ ràng, từ đó tổng kết, báo cáo, kiến nghị kịp thời lên các cấp lãnh đạo Đảng và Nhà nước.
TS Trần Thị Hồng Minh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược, Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương phát biểu tại Hội thảo - Ảnh BTC.
TS Trần Thị Hồng Minh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược, Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương: Chúng ta đã nghe các bài phát biểu từ góc độ tổng quan đến góc độ cụ thể của các diễn giả về vấn đề phát triển kinh tế tư nhân. Đối với cá nhân tôi, hội thảo này rất ý nghĩa. Hiện tại, tôi đang đảm nhiệm vị trí Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược thuộc Ban Chính sách, chiến lược Trung ương, một viện nghiên cứu của cơ quan Đảng, ở góc độ nghiên cứu cũng mang tầm vĩ mô.. Nhưng trước đó, tôi đã có 5 năm đảm nhiệm vị trí Cục trưởng Cục quản lý đăng ký kinh doanh của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cũng như có 6 năm làm Viện trưởng Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, là hai cơ quan thực sự sát cánh với doanh nghiệp về vấn đề gia nhập hay rời khỏi thị trường thuận lợi cũng như thiết kế thể chế vận hành phát triển khu vực kinh tế tư nhân, cụ thể là luật doanh nghiệp.
Đối với cá nhân tôi, sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân là chủ đề đã gắn bó rất lâu. Ở góc độ một nhà nghiên cứu, chúng tôi nhìn nhận rằng trong thời gian qua đã có nhiều thay đổi về thể chế để tạo điều kiện cho khu vực kinh tế tư nhân phát triển thông qua việc ban hành các luật, chẳng hạn một luật sửa nhiều luật….
Và mới đây nhất là Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị về phát triển khu vực kinh tế tư nhân. Trước đó, năm 2017, chúng ta đã có Nghị quyết 10 phát triển khu vực kinh tế tư nhân. Ngược về thêm nữa, trải dài từ Đại hội Đảng lần thứ VI vào năm 1986 cho đến nay đều có các nội dung liên quan tới phát triển khu vực kinh tế tư nhân ở các mức độ tăng dần sự khẳng định. Đến Nghị quyết 68 ngày 4/5/2025 vừa qua, gần như đã khẳng định ở mức độ tuyệt đối rằng khu vực kinh tế tư nhân, doanh nghiệp tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế. Tức một vế rất rõ ràng là vai trò, vị trí của doanh nghiệp tư nhân đã được khẳng định một cách tuyệt đối trong các văn bản quy phạm pháp luật và gần đây nhất là Nghị quyết 68.
Vậy thì vấn đề mà tất cả các cơ quan Quốc hội, cơ quan Chính phủ, cơ quan quản lý Nhà nước và đặc biệt là giới doanh nhân chờ đợi lúc này là việc Nghị quyết sẽ đi vào cuộc sống như thế nào. Tôi kỳ vọng hội thảo ngày hôm nay sẽ là một cầu nối để chúng ta trả lời câu hỏi này một cách thiết thực nhất.
Từ góc độ nhà nghiên cứu kinh tế, tôi xin khẳng định 3 nội dung quan trọng dưới đây.
Thứ nhất, phải khẳng định thẳng thắn rằng Nghị quyết 68 không phải là Nghị quyết mang tính chất ưu ái khu vực tư nhân mà xuất phát từ thực tiễn khách quan. Việc khẳng định vai trò của doanh nghiệp tư nhân, của khu vực kinh tế tư nhân xuất phát từ thực tiễn khách quan, từ sự đóng góp rất hiệu quả của khu vực kinh tế tư nhân vào nền kinh tế cũng như là cái yêu cầu phát triển của đất nước trong thời gian tới.
Trung bình trên thế giới, đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân vào nền kinh tế bình quân ở mức là 84% GDP. Riêng tại Mỹ, đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân vào nền kinh tế lớn hơn, ở mức 89% GDP. Trong khi tại Việt Nam, con số này hiện mới ở khoảng trên dưới 50%. Và chính vì thế, đây là một thực tiễn và một yêu cầu tất yếu trong cái sự phát triển của đất nước. Việc Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 68 vừa qua là hết sức kịp thời để củng cố và khẳng định nhận thức đó.
Như vậy, chúng ta đã thành công ở vế đầu tiên, là tất cả hệ thống chính trị-xã hội đã và đang thừa nhận sự đóng góp quan trọng của khu vực kinh tế tư nhân vào nền kinh tế. Sau đây, vấn đề là chúng ta sẽ thể chế hóa Nghị quyết này như thế nào để Nghị quyết thực sự đi vào cuộc sống.
Câu chuyện ở đây sẽ là tháo gỡ vấn đề thể chế bởi vì thể chế có tốt thì các cơ quan quản lý nhà nước mới có thể thực thi tốt và doanh nghiệp hay người dân mới có thể tuân thủ tốt. Nhưng nếu thể chế không tốt thì bản thân cái thể chế đó sẽ trở thành lực cản, triệt tiêu các động lực phát triển của nền kinh tế. Nếu chúng ta không xây dựng được thể chế tốt thì đó là chúng ta đang bỏ lỡ, bỏ phí những nguồn lực.
Câu chuyện thể chế là câu chuyện dài. Tôi hoàn toàn đồng ý với ý kiến của anh Đậu Anh Tuấn rằng chúng ta nói cải cách chung chung sẽ rất là khó, mà phải cải cách thể chế từ những cái nhỏ nhất cho doanh nghiệp. Ví dụ như khi chúng tôi làm Luật Doanh nghiệp, có một cái rất đơn giản thôi là trong hồ sơ đăng ký doanh nghiệp thì cơ quan phụ trách đăng ký kinh doanh có thể yêu cầu doanh nghiệp phải nộp lý lịch tư pháp. Tuy nhiên nếu việc thực thi trên thực tế không thực sự khách quan, minh bạch thì điều này có thể tạo thêm khó khăn cho doanh nghiệp. Tương tự như vậy, có một loạt những vấn đề khác liên quan tới Luật doanh nghiệp, tới đăng ký kinh doanh… mà nếu không có cái sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước trong việc chia sẻ thông tin - ví dụ như chia sẻ thông tin giữa cơ quan đăng ký kinh doanh và cơ quan thuế hay cơ quan bảo hiểm xã hội - thì doanh nghiệp sẽ phải chịu nhiều những chi phí, tốn kém về thời gian, về tiền bạc.
Vậy nên, tôi cho rằng những cải cách cần xuất phát từ những thứ rất cụ thể. Chúng tôi cũng hy vọng với tư cách là Hiệp hội đại diện cho doanh nghiệp tư nhân của Việt Nam, Hiệp hội chúng ta hoàn toàn có thể thu nhận những ý kiến rất là cụ thể từ phía doanh nghiệp khi triển khai các cái quy định pháp luật để truyền tải những vấn đề khó khăn, vướng mắc đến Chính phủ hoặc các cơ quan liên quan. Cải cách thể chế phải bắt đầu từ những việc rất là cụ thể chứ không phải đao to búa lớn.
Thứ hai, về phía các cơ quan quản lý nhà nước, trong thời gian qua, có một vấn đề mà Trung ương Đảng cũng như Chính phủ và Quốc hội đã nêu ra nhưng mà có lẽ phải thực hiện triệt để hơn là câu chuyện thực thi. Và câu chuyện thực thi này lại liên quan tới nhiều vấn đề, trong đó có chất lượng của thể chế. Đặc biệt là cải cách thủ tục hành chính và công chức viên chức cán bộ là những người thực thi. Chúng ta đã có những tiến bộ trong cải cách thủ tục hành chính, nhưng phải làm nhiều hơn nữa. Nếu chúng ta có được một nền hành chính tốt thì bản thân nền hành chính đó sẽ phục vụ người dân.
Vậy nên theo tôi, cải cách thủ tục hành chính sẽ là câu chuyện cốt lõi trong cái thời gian sắp tới. Nếu nói cụ thể câu chuyện này thì cốt lõi nằm ở con người. Chúng ta sẽ phải có KPI đối với từng người cán bộ, từng người công chức như thế nào đó để người dân đánh giá là anh đã thực thi đúng cái chính sách của anh chưa, đã phục vụ người dân, đã phục vụ doanh nghiệp một cách thực sự phù hợp với trách nhiệm của anh chưa.
Nếu chúng ta thực hiện được cái cốt lõi đó là trách nhiệm của người cán bộ công chức, người phục vụ nhân dân, phục vụ doanh nghiệp một cách tốt hơn thì chắc chắn tất cả các Nghị quyết sẽ đi vào cuộc sống hiệu quả hơn. Và đặc biệt, đối với Nghị quyết 68 - một nghị quyết hết sức quan trọng về phát triển kinh tế tư nhân, khu vực mà chúng ta đã khẳng định đó là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế - thì việc khâu cuối cùng là khâu con người, cán bộ công chức tiếp xúc với doanh nghiệp, doanh nhân được cải thiện thì sẽ là điều mà tôi cho rằng là đóng góp vào sự thành công của Nghị quyết. Xin cảm ơn.
Ông Nguyễn Quang Thuân, Nhà sáng lập kiêm Chủ tịch HĐQT Fiingroup, Chủ tịch HĐQT Công ty xếp hạng đánh giá tín nhiệm FiinRatings chia sẻ tại Hội thảo - Ảnh BTC.
Theo Ông Nguyễn Quang Thuân, Nhà sáng lập kiêm Chủ tịch HĐQT Fiingroup, Chủ tịch HĐQT Công ty xếp hạng đánh giá tín nhiệm FiinRatings vấn đề lớn nhất của Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực doanh nghiệp tư nhân, từ các dự án lớn hàng chục tỷ, trăm tỷ đô cho đến vài chục triệu USD, vẫn là vấn đề vốn.
Tôi xin chia sẻ một số góc nhìn để góp phần triển khai các giải pháp trong nghị quyết này, được chia thành 4 nhóm chính:
Một là, phải có sản phẩm tài chính – vốn mới, ngoài ngân hàng. Vì Việt Nam quá lệ thuộc vào ngành ngân hàng. Chúng ta đã nói nhiều về hệ lụy của nền kinh tế dựa vào ngân hàng.
Hai là, phải phát triển cơ sở nhà đầu tư tổ chức. Hiện nay, trên thị trường chứng khoán, bất động sản hay các quỹ... nhà đầu tư tổ chức vẫn rất yếu. Đây là điểm mấu chốt để khai thông dòng vốn dài hạn cho khu vực tư nhân. Nếu không có vốn dài hạn, thì doanh nghiệp đi huy động rất khó.
Ba là, nếu đã nói đến vốn, vay vốn người khác, thì phải minh bạch. Đây là yêu cầu tất yếu. Bốn là, phải phát triển các mô hình mới.
Trong Nghị quyết có nói nhiều đến doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ. Tôi có một đề xuất rất cụ thể. Hiện nay, Luật Kinh doanh bảo hiểm mới có đề cập đến việc cho doanh nghiệp bảo hiểm làm quản trị tín dụng. Nhưng hiện chưa có nghị định hay thông tư hướng dẫn. Khách hàng của chúng tôi rất nhiều, họ loay hoay tìm cách thoát lệ thuộc vào ngân hàng. Nếu muốn vậy thì phải đa dạng hóa sản phẩm. Đây là điểm rất cụ thể. Không cần sửa luật, chỉ cần nghị định, thông tư hướng dẫn là được.
Tiếp theo, để doanh nghiệp thoát khỏi lệ thuộc ngân hàng, cần đẩy mạnh mô hình chấm điểm tín dụng độc lập. Đặc biệt là đánh giá để tạo cơ sở thứ ba, thay vì chỉ dựa vào CIC hay bản thân các ngân hàng thương mại.
Một điểm nữa, Nghị quyết có nói đến tín dụng xanh và tài chính xanh.
Hiện tại, chúng ta có chương trình hỗ trợ giảm lãi suất cho tín dụng xanh. Nhưng tôi cho rằng giải pháp này không có tính lan tỏa và không bền vững. Vì cuối cùng, mức lãi suất vẫn phụ thuộc vào rủi ro của dự án, của doanh nghiệp. Giải pháp hiệu quả hơn là tín dụng xanh hay trái phiếu xanh cần được ưu đãi về chỉ số an toàn.
Ví dụ: Vì tín dụng xanh thường dài hạn, thì có thể cho hệ số rủi ro thấp hơn, hoặc loại khỏi các hạn chế về việc dùng vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn. Hoặc làm như Trung Quốc: nếu trái phiếu được dán nhãn xanh thì được repo (cầm cố) và xếp hạng tín nhiệm từ mức AA trở lên. Hiện nay ở Việt Nam, chỉ có trái phiếu ngân hàng mới được repo.
Tóm lại, các giải pháp mang tính thị trường sẽ hiệu quả hơn chỉ đạo hệ thống ngân hàng giảm lãi suất, vì “xanh” không làm một doanh nghiệp khỏe hơn. Không thể nói người này khỏe hơn chỉ vì xinh hơn được!
Một điểm nữa, về Quỹ tín dụng phát triển doanh nghiệp và Quỹ bảo lãnh trái phiếu: chúng tôi có nhiều khách hàng làm trái phiếu xanh, năm ngoái làm 4 thương vụ. Họ đã gửi thư cho Chính phủ, cho Bộ trưởng Bộ Tài chính, sẵn sàng đầu tư tối thiểu 100 triệu USD làm vốn mồi để cùng các tổ chức quốc tế triển khai bảo lãnh trái phiếu và tăng tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Họ đã thực hiện một số giao dịch. Ví dụ, lần đầu tiên Việt Nam có một trái phiếu kỳ hạn 20 năm, giá trị 700 tỷ đồng, lãi suất cố định, do một doanh nghiệp vừa và nhỏ phát hành, chứ không phải tập đoàn lớn.
Nhưng hiện tại, nếu làm trong nước thì không có cơ sở pháp lý. Chỉ nếu làm qua quốc tế thì được. Đó là điều đáng tiếc.
Còn rất nhiều vấn đề khác. Ví dụ, nâng hạng tín nhiệm quốc gia, hiện Việt Nam vẫn ở mức đầu cơ – BB+. Điều này khiến không chỉ Chính phủ mà cả doanh nghiệp lớn đi vay dài hạn cũng khó, lãi suất cao. Tôi nghĩ, trong tương lai, với các dự án hạ tầng lớn, thay vì vay vốn nước ngoài như Trung Quốc, Việt Nam có thể để chính quyền địa phương phát hành trái phiếu. Khả thi hơn.
Góc nhìn của tôi, phục vụ hầu hết các doanh nghiệp tài chính lớn, thì không có doanh nghiệp lớn nào ở Việt Nam có thể ra nước ngoài vay 20 – 30 năm mà không có bảo lãnh chính phủ, chưa nói đến 50 năm.
TS Nguyễn Bá Hùng, Kinh tế trưởng Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) tại Việt Nam phát biểu tại phiên thảo luận - Ảnh BTC.
TS Nguyễn Bá Hùng, Kinh tế trưởng Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) tại Việt Nam chia sẻ, ở góc độ ADB, tôi cho rằng NQ 68 rất là đúng hướng và đã chờ đợi quá lâu rồi. Đây là một định hướng rất quan trọng cho Việt Nam. Bởi vì có hay không có Nghị quyết 68 thì chúng ta vẫn phải trông vào khu vực tư nhân phát triển là chủ yếu. Song, kỳ vọng nghị quyết này giúp cho hệ thống hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân tốt hơn.
Ở góc độ thứ nhất: Tôi cho rằng NQ 68 thể hiện tương đối rõ, nhận thức doanh nghiệp tư nhân, kinh tế tư nhân là động lực phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên, cá nhân tôi cho rằng, NQ 68 chưa nói rõ được cái gì là động lực của KTTN.
Ở góc độ chính sách thì tôi cho rằng cái đông lực để phát triển KTTN bao gồm môi trường kinh tế phải có cạnh tranh lành mạnh và các loại thị trường phải được phát triển đầy đủ. Bởi vì doanh nghiệp không cần Nhà nước không cần phải bảo anh đi làm cái này, anh đi làm cái kia, bởi vì đấy là trách nhiệm doanh nghiệp, thế mạnh của doanh nghiệp.
Vậy động lực để phát triển khu vực tư nhân là gì? Là môi trường chính sách rõ ràng, minh bạch và đảm bảo cạnh tranh lành mạnh.
Điều tiên quyết là phải giảm các điều kiện để thâm nhập thị trường. Giảm không có nghĩa là bỏ hoàn toàn, mà là làm sao để vẫn bảo vệ được lợi ích chung, vẫn đảm bảo thị trường vận hành ổn định. Muốn vậy thì cần có cơ chế chống độc quyền, chống gian lận thương mại, biện pháp bảo vệ người tiêu dùng... Những khía cạnh này ở ta hiện nay còn khá yếu.
Yếu tố thứ hai là phát triển đầy đủ các thị trường. Hiện tại, khách quan mà nói thì chúng ta không có thị trường dự án; thị trường tài chính khá là yếu, huy động vốn là để có cái chỗ gọi là thị trường, để “bán vốn” và “mua vốn”.
Bên cạnh đó, thị trường đất đai, các tư liệu sản xuất còn vận hành cũng yếu; thị trường lao động còn nhiều bất cập. Người lao động thì đi tìm việc nhưng không biết kỹ năng mình có đang thiếu hay thừa, ngành nghề nào đang cần, mức lương thị trường ra sao… Trong khi ở các nước phát triển, hệ thống thống kê thị trường lao động rất tốt. Hàng năm họ đều công bố số liệu cụ thể về các ngành nghề đang tuyển dụng nhiều, lương trung bình, xu hướng thị trường... Những dữ liệu này giúp thị trường lao động vận hành trơn tru hơn và giúp doanh nghiệp hoạt động hiệu quả hơn.
Tôi quay lại câu chuyện muốn phát triển doanh nghiệp, nhất là tư nhân, thì môi trường chính sách vẫn là mấu chốt. Nhà nước không cần phải bảo doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, doanh nghiệp có nhu cầu họ sẽ tự làm. Vấn đề của Nhà nước là phải tạo lập được một môi trường cạnh tranh lành mạnh và vận hành thị trường hiệu quả, để doanh nghiệp làm tốt phần của họ.
Tuy nhiên, tôi muốn bổ sung một điểm đối với doanh nghiệp, điều quan trọng là môi trường kinh doanh phải ổn định và mang tính dự báo, để họ có thể lên kế hoạch vận hành.
Chi phí cao không nhất thiết quan trọng, doanh nghiệp hoàn toàn có thể đáp ứng được, khi doanh nghiệp họ vận hành tốt thì các cái chi phí đấy họ cũng hoàn toàn có thể ứng phó được trong hoạt động kinh doanh.
Bây giờ mình điều cần thiết là cơ quan nhà nước tự cam kết một cái khoảng thời gian cần thiết để thực hiện cái việc thẩm định và chấp nhận là nếu mà hết thời hạn đấy mà chưa trả lời là được duyệt. Điều này sẽ giúp doanh nghiệp thực hiện tốt các kế hoạch của mình.
Cái thứ hai là yếu tố lành mạnh tức là các dịch vụ thẩm định, hỗ trợ cho cơ quan nhà nước, thậm chí cả việc bảo vệ người tiêu dùng, bảo vệ khách hàng. Hệ thống luật lệ phải có để bảo vệ, nhưng trong trường hợp nhà nước chưa đủ nhân lực, chưa đủ năng lực, thì có thể thuê dịch vụ tư vấn để giúp thực hiện các nhiệm vụ, chức năng quản lý đó.
Việc này cũng mở ra những thị trường dịch vụ mới, và đó là những thị trường rất sôi động. Ở Việt Nam, chúng ta đã có tiền lệ về những dịch vụ hỗ trợ nhà nước như vậy, ví dụ như dịch vụ công chứng vốn cũng là một biện pháp rất tích cực.
Cuối cùng, tôi xin nói thêm một điều nếu doanh nghiệp Việt Nam muốn “go global” (vươn ra toàn cầu) thì luật pháp Việt Nam cũng phải “go global” – chơi cùng luật với thế giới. Doanh nghiệp không thể chơi một mình theo luật riêng khi bước ra thế giới.
Trước đây chúng ta đặc thù, bây giờ nên bớt đặc thù để hội nhập quốc tế. Trước đây khi gia nhập WTO năm 2007, chúng ta cũng rất lo lắng, nhưng sau đó là giai đoạn phát triển vượt bậc. Như vậy, việc hội nhập luật lệ quốc tế là điều cần thiết. Doanh nghiệp Việt Nam rất năng động và hoàn toàn có thể thích nghi với môi trường mới, nếu có đủ thời gian và định hướng rõ ràng.
Ông Nguyễn Đình Thắng - Ủy viên BCH TW Hội DNTNVN, Chủ tịch HĐTV Công ty TNHH Công nghệ Hồng Cơ phát biểu tại Hội thảo - Ảnh BTC.
Ông Nguyễn Đình Thắng - Ủy viên BCH TW Hội DNTNVN, Chủ tịch HĐTV Công ty TNHH Công nghệ Hồng Cơ chia sẻ tại Hội thảo: Tôi cho rằng gần như 100% các hoạt động khởi nghiệp hiện nay đều xuất phát từ khu vực tư nhân. Nhà nước chủ yếu giao nhiệm vụ. Cần có chính sách rõ ràng để hỗ trợ sự phát triển của khu vực tư nhân, đặc biệt là tạo động lực cho các tập đoàn lớn.
Tuy nhiên, điều quan trọng hơn cả là làm sao để các hoạt động khởi nghiệp thực sự mang lại hiệu quả, tránh tình trạng "khởi nghiệp rồi lại sạt nghiệp". Hiện tại, tôi chưa thấy có một cơ chế rõ ràng nào cho vấn đề này. Đối với các bạn trẻ khởi nghiệp, một trong những khó khăn lớn nhất là vấn đề vốn và tài sản thế chấp.
Mặc dù có chính sách dành một tỷ lệ GDP nhất định cho khoa học công nghệ, nhưng thực tế cho thấy nguồn vốn này dường như chưa đến được tay các bạn trẻ khởi nghiệp. Nguyên nhân có thể do các bạn trẻ không đủ tiêu chuẩn để tiếp cận nguồn vốn, hoặc do những "khe hở" trong cơ chế xin-cho.
Việc thành lập các quỹ đầu tư mạo hiểm là cần thiết, nhưng cần có cơ chế giám sát chặt chẽ để đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn, tránh tình trạng tiêu tiền một cách lãng phí.
Tôi đề xuất một số giải pháp sau:
Cần có những nghị định đặc biệt cho các dự án khởi nghiệp sáng tạo. Nhà nước cần đồng hành cùng doanh nghiệp trong việc đầu tư. Nếu doanh nghiệp không làm được thì phải chịu trách nhiệm.
Nhà nước cần đóng vai trò là "khách hàng lớn nhất", đặt hàng các sản phẩm công nghệ của doanh nghiệp trong nước để nuôi dưỡng sự phát triển. Nếu không có sự hỗ trợ này, các doanh nghiệp khởi nghiệp sẽ khó cạnh tranh với các "ông lớn" nước ngoài.
Việc làm chủ công nghệ nền tảng là vô cùng quan trọng đối với sự phát triển bền vững của đất nước, đặc biệt trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu. Nếu chúng ta không làm chủ được công nghệ, chúng ta sẽ luôn ở thế bị động và có thể "chết" bất cứ lúc nào. Cần có chính sách đặc biệt để khuyến khích phát triển công nghệ lõi, đặc biệt là các sản phẩm "Make in Vietnam". Nếu không có sự đầu tư và hỗ trợ của Nhà nước, các sản phẩm công nghệ lõi của Việt Nam sẽ khó có thể tồn tại và phát triển.
Khi đó, chúng ta sẽ trở thành "bãi rác" tiêu thụ công nghệ của thế giới và không thể tự chủ được nền kinh tế.
Tôi mong muốn Hiệp hội Doanh nghiệp Tư nhân Việt Nam sẽ chung tay hỗ trợ các bạn trẻ khởi nghiệp, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ. Cần có những chính sách đặc biệt để nuôi dưỡng và phát triển các doanh nghiệp khởi nghiệp, góp phần xây dựng một đất nước Việt Nam tự chủ và hùng cường.
TS Lê Xuân Nghĩa, Thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia, Nguyên Phó Chủ tịch Uỷ ban Giám sát Tài chính quốc gia phát biểu tại Hội thảo - Ảnh BTC.
Theo TS Lê Xuân Nghĩa để doanh nghiệp Việt Nam tồn tại và phát triển bền vững đến giờ là “lách qua ngõ hẹp” và NQ68 có vẻ là một con đường lớn. Để từ ngõ hẹp đi ra đường lớn thì tốt độ phát triển của doanh nghiệp phải nhanh và mạnh hơn.
Tuy nhiên, cần phải lưu tâm là đường lớn chưa chắc đã nhanh và mạnh hơn. Ví dụ Thái Lan, Malaysia, Indonesia… đều là kinh tế tư nhân, cũng tự do thoải mái nhưng kinh tế không mạnh bằng Hàn Quốc và Trung Quốc, nơi mà thậm chí kinh tế tư nhân còn thấp hơn kinh tế Nhà nước. Như vậy để thấy rằng khi doanh nghiệp đã ra đường lớn rồi nhưng nếu Chính phủ không có chính sách tốt thì doanh nghiệp khó cất cánh được.
Khi ra đường lớn, có thể doanh nghiệp thoải mái hơn lúc trước nhưng việc để trở thành 20 tập đoàn toàn cầu không phải mục tiêu đơn giản. Chúng ta phải đặt vấn đề ngoài sự cởi trói cần có định hướng phát triển công nghiệp để doanh nghiệp đi lên.
Với thắc mắc của doanh nghiệp về kỳ vọng là hoàn toàn có thật. Tuần vừa rồi, chúng tôi bắt đầu thảo luận một số chính sách cụ thể của NHTW theo chỉ thị của Tổng Bí thư, trong đó có các chính sách về thị trường vàng. Khi thảo luận có rất nhiều ý kiến khác nhau. Thậm chí có nhiều ý kiến viện cớ rằng Việt Nam rất đặc thù “dân Việt Nam quá yêu chuộng vàng nên cần quản lý vàng”. Các doanh nghiệp thì nêu mong muốn được nhập khẩu vàng để sản xuất trang sức xuất khẩu. Chả lẽ lại cấm người dân tiết kiệm vàng?
Nghị quyết này mang theo rất nhiều kỳ vọng nhưng để đi vào cuộc sống cần thêm nhiều yếu tố khác nữa. Có hai vấn đề. Thứ nhất, thượng sách là mở cửa, cho phép nhập khẩu theo quy định. Bắt buộc công ty này bán sỉ cho các doanh nghiệp để họ bán lẻ. Trung sách là cho phép 9 ngân hàng thương mại và 4 công ty nhập khẩu về, lập một sàn giao dịch, định giá theo quy định. Sàn này không được bán lẻ. Việc này tương tự như ở Trung Quốc là có một sàn để chỉ đạo toàn bộ lượng vàng trong nước không được chênh lệch quá so với thị trường thế giới.
Câu chuyện trước mắt không phải doanh nghiệp sau này sẽ thực hiện như thế nào mà Nghị quyết sẽ được thể chế hoá như thế nào? Thể chế hoá xong thì kỷ luật thực hiện như thế nào?
Tôi mong rằng hội thảo sẽ ưu tiên đưa ra những ý tưởng để điều chỉnh lại luật sao cho thật hiệu quả.
Doanh nhân Phan Hoàng Tuấn - Uỷ viên BCH TW Hội DNTNVN, Chủ tịch HĐQT CTCP Xây dựng Gia Thy chia sẻ tại Hội thảo - Ảnh BTC.
Doanh nhân Phan Hoàng Tuấn - Uỷ viên BCH TW Hội DNTNVN chia sẻ: Tôi thấy việc phân công, phân nhiệm trong kế hoạch của Chính phủ đã rất cụ thể theo từng bộ, ngành. Tuy nhiên, với hơn 30 năm hoạt động trong nhiều lĩnh vực và làm doanh nhân, tôi cho rằng khi một luật hay chính sách ban hành, tiên quyết vẫn là làm sao để nó được thực thi và cụ thể hóa trong hành xử của viên chức nhà nước.
Vấn đề lớn hiện nay là sự chồng chéo và mâu thuẫn của nhiều luật, thậm chí còn liên quan đến cả Hiến pháp. Chúng ta đều nhận ra rằng mọi thứ là thể chế, là trách nhiệm phân quyền, là chính sách tiếp cận nguồn lực. Nhưng cách chúng ta thực thi như thế nào mới là điều cốt lõi.
Nói thì dễ, nhưng thể chế hóa và hiện thực hóa chính sách từ Đảng, Nhà nước đến người thực thi vẫn rất chậm. Cùng một luật, viên chức ở địa phương này hiểu khác với địa phương khác, vì ngoài luật còn có “lệ”.
Về mặt chính sách, tôi có mấy kiến nghị để đảm bảo việc thực thi đi đúng lộ trình và hiện thực hóa được mục tiêu, qua đó thúc đẩy môi trường kinh doanh và đầu tư.
Thứ nhất, phải đẩy nhanh quá trình sửa đổi luật. Chính phủ đã rất cụ thể về thời gian, nhưng cần cơ chế giám sát và đánh giá hiệu quả thực thi. Không thể để tình trạng “sửa luật 3 năm chưa xong”, hay “trình đi trình lại”. Nếu chậm, sự chồng chéo giữa các luật sẽ kéo dài, làm chậm hiện thực hóa chủ trương đúng đắn của Bộ Chính trị tới từng doanh nhân, từng môi trường kinh doanh.
Thứ hai, cần minh bạch và trách nhiệm giải trình. Nghe thì đơn giản nhưng thực tế rất khó. Ví dụ trong Luật Đất đai năm 2005, đã quy định rõ, nhưng khi doanh nghiệp nộp dự án lên sở xây dựng, các bộ phận viên chức dù biết nhưng chưa thực hiện. Đây là vấn nạn khiến môi trường kinh doanh ngày càng khó.
Thứ ba, cần hướng dẫn cụ thể và phân định rõ nhiệm vụ. Luật nhiều khi ra rồi, người đọc hiểu theo cách của mình. Người thực thi hiểu một kiểu, người hướng dẫn luật hiểu một kiểu. Chính sự nhập nhằng này tạo ra chồng chéo và gây khó khăn cho doanh nghiệp.
Thứ tư, Quốc hội phải có cơ chế giám sát với thang đo cụ thể. Ví dụ: quy định Bộ Xây dựng phải hoàn thành nội dung nào đó vào năm 2025, nếu không hoàn thành thì xử lý ra sao? Phải có thang đo và chế tài cụ thể, thì việc thực thi mới nhanh. Luật có đi được hay không phụ thuộc vào điều đó.
Cuối cùng, với các nghị quyết như 59, 60 để hội nhập quốc tế, tôi nghĩ nếu chúng ta có môi trường kinh doanh thuận lợi, việc tăng từ 900.000 doanh nghiệp lên 2–3 triệu doanh nghiệp vào năm 2030 là khả thi. Giống như khi thị trường chứng khoán sôi động, tài khoản được mở ồ ạt. Môi trường kinh doanh cũng vậy: Thuận lợi thì doanh nghiệp tự phát triển.
Thể chế là điều cốt lõi, nhưng quan trọng hơn là giám sát và thực thi ra sao, thang đo như thế nào. Cần đi vào cụ thể thì chính sách mới đi vào cuộc sống, và tính ưu việt của Nghị quyết 68 mới được phát huy...

TS. Phan Đức Hiếu, Ủy viên Thường trực Ủy ban Kinh tế của Quốc hội trình bày ý kiến tham luận tại Hội thảo - Ảnh BTC.
Trong tham luận của mình, TS. Phan Đức Hiếu, Ủy viên Thường trực Ủy ban Kinh tế của Quốc hội nhận định: Trước tiên mọi người cần nắm thật rõ Nghị quyết này đề cập đến vấn đề gì? Nếu về cách tiếp cận như TS Nguyễn Bá Hùng vừa nói thì chưa hoàn toàn chính xác. Nghị quyết 68 tiếp cận thị trường theo đúng ý của anh Hùng. Về mặt lý thuyết, làm thế nào để có thị trường? Đó là giảm sự can thiệp của pháp luật, khi đó sẽ có thị trường và các doanh nghiệp cạnh tranh. Cách tiếp cận này không giống như anh Bá Hùng nói, rằng nghị quyết không tiếp cận theo hướng đó. Cách tiếp cận chủ đạo của Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị là mở ra một môi trường cạnh tranh. Đó chính là phát triển thị trường, và điều này áp dụng cho tất cả các thị trường, không trừ một thị trường nào.
Nghị quyết này chỉ thực sự có ý nghĩa nếu được thực thi đầy đủ, kịp thời và càng nhanh càng tốt. Vậy tại sao Quốc hội lại phải gấp rút thông qua Nghị quyết 198 chỉ trong vòng 10 ngày sau khi ban hành Nghị quyết 68? Và tại sao Nghị quyết 198 lại mang tính quy phạm và được thực hiện ngay?
Câu chuyện tiếp theo là để nghị quyết của Bộ Chính trị đi vào cuộc sống, cần phải thể chế hóa bằng luật, không có cách nào khác. Và làm thế nào để thể chế hóa bằng luật? Đó là sửa đổi tất cả các luật có liên quan.
Tại kỳ họp thứ 9, Chính phủ đang trình 30 dự án luật. Chúng tôi phải đưa toàn bộ tinh thần của Nghị quyết 68 vào 30 dự án luật này để sửa đổi. Đó là lý do tại sao ban đầu tôi gợi ý Hiệp hội nên kiến nghị trực tiếp vào 30 dự án luật này. Điều này đúng với tinh thần của Nghị quyết 68 và có thể thực hiện được ngay. Rất mừng là chiều thứ Bảy vừa qua, một số tập đoàn đã kiến nghị trực tiếp vào việc sửa đổi Luật PPP, Luật Đầu tư và nhiều vấn đề khác, rất cụ thể và thiết thực. Đó là điểm thứ nhất.
Vậy nếu các luật chưa được sửa đổi thì bao giờ Nghị quyết 68 mới đi vào cuộc sống? Phải đợi sửa luật. Mà đợi sửa luật thì không biết đến bao giờ, vì cần có thời gian, ít nhất là đến kỳ họp tiếp theo, dù là bất thường hay thường kỳ. Đó chính là sáng kiến của Bộ Chính trị, của Quốc hội, của Chính phủ khi ban hành nghị quyết này. Yêu cầu của chúng ta là chính sách phải đi vào cuộc sống, nhưng nếu cứ chờ sửa luật thì sẽ rất lâu, sẽ có độ trễ. Để giải quyết vấn đề này, chúng ta cần nói nhiều hơn về Nghị quyết 198. Khi chờ sửa các luật chưa có trong chương trình nghị sự của Quốc hội, Quốc hội phải ban hành ngay một nghị quyết trong phạm vi thẩm quyền của mình, một nghị quyết mang tính quy phạm. Những gì có thể thể chế hóa được trong Nghị quyết 68 thì sẽ được thể chế hóa ngay. Và Nghị quyết 198 này mang tính quy phạm, áp dụng ngay từ ngày có hiệu lực thi hành. Chính vì vậy mà Nghị quyết 198 ra đời.
Anh chị hình dung, nói đến Nghị quyết 68 là bao trùm, còn những điều cụ thể thì phải nói đến Nghị quyết 198. Nghị quyết 198 của Quốc hội cũng là lần đầu tiên trong lịch sử mà không đợi đến cuối kỳ họp mới bấm nút thông qua. Vì nếu đợi đến cuối kỳ họp thì chậm ngày nào, doanh nghiệp thiệt ngày đó. Chúng tôi đã làm việc ngày đêm để ban hành Nghị quyết 198 này chỉ trong vòng 10 ngày, điều chưa từng có trong lịch sử Quốc hội đối với một nghị quyết quy phạm. Điều này khắc phục được tình trạng chính sách, chủ trương bị chậm trễ do phải chờ sửa luật. Nghị quyết 198 sẽ giải quyết ngay những vấn đề trong phạm vi của nó, vì đây là một nghị quyết mang tính quy phạm. Điều này, anh chị cần hiểu cho Quốc hội.
Anh chị hãy đọc kỹ nghị quyết này. Tôi chỉ xin nêu một vài điểm quan trọng để anh chị hiểu rõ. Tất cả các chính sách này sẽ được thực hiện ngay. Rủi ro của doanh nghiệp đến từ đâu? Từ thanh tra, kiểm tra. Bây giờ, nghị quyết quy định thanh tra, kiểm tra phải dựa trên nguyên tắc rủi ro. Thứ nhất, không quá một lần. Điều này không có nghĩa là mỗi năm một lần, mà là không quá một lần, tức là có thể không có lần nào. Nếu có, cũng không quá một lần. Thứ hai, để tránh trùng lặp, đã thanh tra thì không kiểm tra. Đây là quy định rõ ràng. Vì vậy, các anh chị cứ tuân thủ đúng luật mà làm.
Thứ hai, về hỗ trợ lãi suất. Chính phủ sẽ chi tiền hỗ trợ 2% lãi suất cho các dự án xanh, tuần hoàn. Tuy nhiên, việc thực thi cụ thể như thế nào thì cần phải có tiêu chí rõ ràng. Ngân hàng Nhà nước sẽ phải sửa đổi các quy định liên quan.
Thứ ba, một điểm mà anh chị có thể không để ý khi đọc văn bản, đó là tinh thần của việc chủ động khắc phục hậu quả. Điều này rất khác biệt. Thông thường, khi xử lý một trách nhiệm nào đó, việc chủ động khắc phục hậu quả được coi là tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng. Nhưng bây giờ, quy định đã khác. Đây là một điểm rất quý giá. Đó là cho phép chủ động khắc phục hậu quả trước. Sau đó, mới tính toán hậu quả để xem xét có cần áp dụng các biện pháp xử lý tiếp theo hay không. Bản chất vấn đề đã hoàn toàn khác. Trước đây, hậu quả như thế nào thì xử lý như vậy, còn việc khắc phục là chuyện sau. Bây giờ thì khác hẳn, khác hẳn về bản chất.
Tiếp theo, về doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tất cả các gói thầu xây lắp dưới 20 tỷ đồng hiện nay chỉ dành cho doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia đấu thầu với nhau. Đây là điều chúng tôi phát hiện ra. Các gói thầu nếu được đưa ra đấu thầu một cách sòng phẳng, giống như đấu quyền Anh, thì một doanh nghiệp 100kg đấu với một doanh nghiệp 50kg, doanh nghiệp nhỏ sẽ bị "knock-out" ngay lập tức, không bao giờ có cơ hội. Vì vậy, các gói thầu này chỉ dành cho doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nếu họ không đấu thầu được thì mới dành cho doanh nghiệp lớn. Nếu không, doanh nghiệp lớn sẽ thắng thầu, và cuối cùng, doanh nghiệp nhỏ chỉ toàn làm thầu phụ cho doanh nghiệp lớn. Điều này theo tôi là rất quan trọng.
Thứ ba, đối với các doanh nghiệp lớn, nhưng có những việc mà doanh nghiệp được cho là lớn của Việt Nam chưa bao giờ làm. Bây giờ, yêu cầu các doanh nghiệp lớn phải có kinh nghiệm, phải từng làm những việc đó. Nếu không, doanh nghiệp nước ngoài sẽ làm, hoặc doanh nghiệp khác sẽ làm. Nếu vậy, bao giờ doanh nghiệp của chúng ta mới có cơ hội? Có những việc chúng ta chưa bao giờ làm. Vậy làm sao chúng ta có thể đấu thầu được? Chúng ta phải chấp nhận một cơ chế đặt hàng, đấu thầu hạn chế, chỉ định thầu. Nhưng phải dựa trên nguyên tắc minh bạch, giám sát chặt chẽ, thưởng phạt công minh.
Thứ tư, đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, từ nay trở đi, Chính phủ sẽ sớm triển khai việc miễn phí tất cả các nền tảng phần mềm kế toán số cho doanh nghiệp siêu nhỏ và doanh nghiệp nhỏ. Miễn phí thực hiện kế toán.
Thứ năm, đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, các khu, cụm công nghiệp hiện nay bắt buộc phải dành ít nhất 20 ha trên một khu trung bình, hoặc 5 ha trên toàn bộ khu vực cho doanh nghiệp vừa và nhỏ thuê. Sự khác biệt ở đây là trước đây doanh nghiệp nhỏ đến khu công nghiệp thuê đất, họ thường không được cho thuê vì diện tích nhỏ, tiền thuê ít. Nhưng bây giờ, nghị quyết quy định rõ, doanh nghiệp nhỏ và vừa đến thuê là phải cho thuê, không phân biệt diện tích ít hay nhiều, và phải dành đất cho họ thuê. Nhà nước sẽ hỗ trợ 30% tiền thuê.
Thứ sáu, việc miễn thuế 3 năm cho doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Thứ bảy, quay trở lại vấn đề chủ động khắc phục hậu quả. Ở đây, tôi xin lưu ý các nhà báo, đặc biệt là các nhà báo, đài truyền hình. Nghị quyết quy định rõ, trong việc xử lý và đưa tin về các vụ việc vi phạm của doanh nghiệp, phải tách bạch giữa trách nhiệm của cá nhân và trách nhiệm của doanh nghiệp. Nếu ông Phan Đức Hiếu có một doanh nghiệp A vi phạm, thì không thể đưa tin rằng ông Phan Đức Hiếu vi phạm, rồi cố tình mở ngoặc ghi là chủ tịch của doanh nghiệp A. Ông Phan Đức Hiếu là cá nhân, có thể lợi dụng doanh nghiệp để vi phạm. Doanh nghiệp là một chủ thể khác, có tài sản, có người lao động và có hoạt động sản xuất kinh doanh. Việc xử lý các vụ việc phải tách bạch tài sản của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp chịu trách nhiệm thì đưa tin về việc doanh nghiệp vi phạm. Nếu cá nhân vi phạm thì cá nhân đó vi phạm, không được đánh đồng để gây thiệt hại đến sự phát triển ổn định và bền vững của doanh nghiệp, cũng như phải duy trì được quyền của doanh nghiệp. Hết sức nên tránh việc đưa tin kiểu này.
Nghị quyết nhắc lại ý này. Báo chí bị nghiêm cấm đưa tin gây tổn hại đến doanh nghiệp. Từng chữ trong nghị quyết này đều có hàm ý.
Tôi xin đưa ra thêm một ý cuối cùng, việc thực thi mạnh mẽ nghị quyết sẽ quyết định sự thành công của nó. Bản thân nghị quyết không thể tự thành công được, mà phải được thực thi một cách quyết liệt, sớm và mạnh mẽ.
Vì vậy, rất mong bản thân doanh nghiệp, các anh chị rất ý thức rằng, nếu lạc hậu, không phát triển, chậm chân, mô hình kinh doanh kém hiệu quả, thì doanh nghiệp lớn hôm nay, ngày mai có thể chỉ còn là cái bóng. Các doanh nghiệp sáng tạo, nếu năng động, hoạt bát, nhanh nhạy, cùng với thế hệ trẻ phía sau họ có ý tưởng, có nguồn lực, họ sẽ đào thải những doanh nghiệp yếu kém. Sự đào thải sẽ rất lớn, nhưng đồng thời cũng là cơ hội để bứt phá, vươn lên.
PGS.TS Nguyễn Trọng Điều, nguyên: Thứ trưởng Bộ Nội vụ, Phó Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Giám đốc Học viện Hành chính Quốc gia; nay là Chủ tịch Hội Doanh nhân Tư nhân Việt Nam phát biểu bế mạc Hội thảo.
Phát biểu bế mạc Hội thảo PGS.TS Nguyễn Trọng Điều, nguyên: Thứ trưởng Bộ Nội vụ, Phó Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Giám đốc Học viện Hành chính Quốc gia; nay là Chủ tịch Hội Doanh nhân Tư nhân Việt Nam chia sẻ: “Hội thảo khoa học Kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế” đã thành công tốt đẹp. Nhân dịp này, cho phép chúng tôi bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc tới các nhà khoa học, các quý vị diễn giả, các doanh nhân cùng các cơ quan truyền thông và tập đoàn BRG, các nhà tài trợ đã tạo mọi điều kiện để hội thảo diễn ra thành công tốt đẹp.
Chúng tôi xin khẳng định rằng tất cả các ý kiến đóng góp của quý vị đã được ghi nhận đầy đủ, và sẽ chuyển hóa các ý kiến đó thành cuốn kỷ yếu để nhân rộng những tư tưởng, nhận định và kiến nghị xác đáng này đến toàn bộ hệ thống thành viên của Hội chúng tôi.
Các chuyên gia, diễn giả và ban tổ chức chụp lưu niệm.