7 DN tỷ đô được đề xuất nghiên cứu thí điểm tham gia Đề án phát triển DNNN quy mô lớn
7 doanh nghiệp nhà nước (DNNN) có tổng tài sản trên 20 nghìn tỷ đồng trở lên thuộc 4 lĩnh vực được đề xuất để nghiên cứu thí điểm tham gia Đề án phát triển doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn phát huy vai trò dẫn dắt.
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng vừa chủ trì cuộc họp về Đề án phát triển DNNN quy mô lớn, đặc biệt là tập đoàn kinh tế nhà nước đa sở hữu nhằm phát huy vai trò mở đường, dẫn dắt cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng trong thời kỳ mới.
Tham dự cuộc họp ngoài đại diện các bộ ngành còn có lãnh đạo nhiều DNNN lớn, kể cả các doanh nghiệp chưa nằm trong đề xuất tham gia Đề án. 17 tập đoàn, tổng công ty nhà nước đều nằm trong trong phạm vi nghiên cứu của Đề án.
Phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng trong thời kỳ mới
Theo đề án do Bộ Kế hoạch - Đầu tư chủ trì, xây dựng thì việc xây dựng các tập đoàn kinh tế mạnh đã được đề cập tại nhiều Nghị quyết quan trọng. Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba BCH Trung ương Đảng (Khóa IX) đã đề ra chủ trương: “Hình thành một số tập đoàn kinh tế (TĐKT) mạnh trên cơ sở các tổng công ty (TCty) nhà nước, có sự tham gia của các thành phần kinh tế, kinh doanh đa ngành, trong đó có ngành kinh doanh chính chuyên môn hoá cao và giữ vai trò chi phối lớn trong nền kinh tế quốc dân, có quy mô rất lớn về vốn, hoạt động cả trong và ngoài nước, có trình độ công nghệ cao và quản lý hiện đại, có sự gắn kết trực tiếp, chặt chẽ giữa khoa học công nghệ, đào tạo, nghiên cứu triển khai với sản xuất kinh doanh. Thí điểm hình thành TĐKT trong một số lĩnh vực có điều kiện, có thế mạnh, có khả năng phát triển để cạnh tranh và hội nhập kinh tế có hiệu quả như: Dầu khí, viễn thông, điện lực, xây dựng...”.
Tổng tài sản của 7 doanh nghiệp đầu đàn. Đơn vị tính "nghìn tỉ đồng".
Triển khai thực hiện chủ trương của Nghị quyết này, năm 2005, Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam là TĐKT đầu tiên được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án thí điểm thành lập. Từ năm 2005 cho đến nay, đã có 13 TĐKT nhà nước được thí điểm thành lập.
Trong quá trình hoạt động từ khi thực hiện thí điểm đến nay, doanh nghiệp nhà nước (DNNN) quy mô lớn mà trọng tâm là các TĐKT, TCty nhà nước đã có những đóng góp nhất định cho phát triển kinh tế - xã hội, điều tiết vĩ mô, ổn định giá cả, cung cấp sản phẩm, dịch vụ thiết yếu cho nền kinh tế cũng như trong việc đầu tư phát triển các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, thực hiện xoá đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa...
Tuy nhiên, Bộ KH-ĐT cũng đưa ra đánh giá: từ khung pháp lý thí điểm đến việc triển khai tổ chức thực hiện thí điểm thành lập, tổ chức, hoạt động và quản lý, giám sát các DNNN quy mô lớn còn nhiều vấn đề đặt ra. Mô hình tổ chức và hoạt động vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế và kết quả hoạt động chưa tương xứng với nguồn lực nắm giữ, năng lực cạnh tranh còn thấp. Một số TĐKT lớn của Nhà nước, điển hình là Vinashin, Vinalines bị thua lỗ đã để lại nhiều hệ lụy xấu cho nền kinh tế đến nay vẫn chưa giải quyết dứt điểm được.
Tại Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 3.6.2017 Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả DNNN, Đảng đã nhận định có sự “chủ quan, nóng vội trong thực hiện chủ trương thí điểm thành lập các TĐKT nhà nước hoạt động đa ngành”. Để nâng cao hiệu quả hoạt động và phát huy vai trò của TĐKT trong thời kỳ mới, Nghị quyết đã đưa ra mục tiêu đến năm 2030 là: “Củng cố, phát triển một số TĐKT nhà nước có quy mô lớn, hoạt động hiệu quả, có khả năng cạnh tranh khu vực và quốc tế trong một số ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế”.
Tại Nghị quyết số 18/NQ-CP ngày 26.2.2020 Bộ Kế hoạch và Đầu tư được giao xây dựng Đề án “Phát triển DNNN quy mô lớn, đặc biệt là TĐKT nhà nước đa sở hữu nhằm phát huy vai trò mở đường, dẫn dắt cho doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng trong thời kỳ mới”.
Tiêu chí để làm “sếu đầu đàn”
Để thực hiện vai trò "sếu đầu đàn" sẽ phát huy vai trò mở đường, dẫn dắt của doanh nghiệp nhà nước trong việc hình thành và mở rộng các chuỗi sản xuất, cung ứng và chuỗi giá trị trong nước, khu vực và thế giới, tại Đề án, Bộ KHĐT xác định một số tiêu chí sau: Phải đạt yêu cầu kinh tế quy mô xét trên tiêu chí về quy mô tài sản hoặc vốn điều lệ (đề xuất mức vốn điều lệ ở mức trên 1.800 tỉ đồng); phải có khả năng mở rộng thị trường và tăng được thị phần, theo đó, phải đạt được thị phần đủ lớn để có khả năng chi phối thị trường, phải hoạt động trong những ngành có tính chất lan tỏa, dẫn dắt (không thuộc ngành, lĩnh vực Nhà nước độc quyền) như: Kết cấu hạ tầng kinh tế, công nghiệp, năng lượng, viễn thông, tài chính ngân hàng; ưu tiên các doanh nghiệp đã đa dạng hóa sở hữu hoặc có khả năng đa dạng hóa sở hữu trong thời gian tới, Nhà nước sẽ nắm giữ từ 50% vốn điều lệ trở lên.
Tại cuộc họp về Đề án này diễn ra ngày 10.3.2021, một số các tiêu chí đã được cụ thể hoá như: tài sản trên 20.000 tỉ đồng, các tiêu chí chung khác của các doanh nghiệp này là chiếm thị phần từ 30% trở lên, bảo đảm các quy định về cạnh tranh; ROE (lợi nhuận trên vốn) lớn hơn 6; được quản trị tốt trên cơ sở nguyên tắc OECD.
Ban đầu, đề án đưa ra nghiên cứu 17 TĐKT, TCty tuy nhiên so với các tiêu chí đưa ra, trong đó có tiêu chí quản trị thì nhiều TĐKT lại chưa đáp ứng được.
Để án đưa ra một số vấn đề, những doanh nghiệp được chọn sẽ phải là các DNNN hoạt động hiệu quả và có quy mô lớn trong một số lĩnh vực năng lượng, viễn thông. Đây là những ngành quan trọng, ảnh hưởng đến quá trình thực hiện chuyển đổi số trong bối cảnh cuộc CMCN 4.0 và an ninh năng lượng quốc gia. Từ đó có ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển kinh tế.
Theo đề xuất ban đầu, có 7 doanh nghiệp sẽ được thí điểm đầu tiên gồm 3 doanh nghiệp thuộc lĩnh vực công nghiệp công nghệ cao (Viettel, VNPT, MobiFone), 2 doanh nghiệp thuộc lĩnh vực năng lượng tái tạo (Tập đoàn Điện lực EVN và Tập đoàn Dầu khí PVN), 1 doanh nghiệp thuộc lĩnh vực cảng biển và logistics là Tổng Công ty Tân Cảng Sài Gòn và Vietcombank thuộc lĩnh vực tài chính - ngân hàng.
Về tầm nhìn, mục tiêu xây dựng Tập đoàn Dầu khí Việt Nam có tiềm lực mạnh mẽ về tài chính và khoa học công nghệ, có sức cạnh tranh cao, chủ động tích cực hội nhập quốc tế, trở thành TĐ Dầu khí quốc gia ngang tầm với các nước khác trong khu vực (Thái Lan, Malaysia...).
Đối với Tập đoàn Điện lực, phát triển TĐ Điện lực Việt Nam thành TĐKT mạnh, kinh doanh bền vững, là TĐKT hàng đầu trong lĩnh vực năng lượng tại Việt Nam và khu vực, đóng vai trò chủ đạo, nòng cốt để ngành điện lực Việt Nam phát triển bền vững, hiệu quả trong nhiệm vụ đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia. Phấn đấu đưa TĐ trở thành TĐKT hàng đầu trong lĩnh vực năng lượng Việt Nam tại khu vực Châu Á đến năm 2030.
Tầm nhìn với TĐ Bưu chính Viễn thông Việt Nam là chuyển đổi từ nhà cung cấp dịch vụ viễn thông sang nhà cung cấp dịch vụ số. Đến năm 2030, trở thành Trung tâm số - Digital Hub ở khu vực Châu Á và chủ động, tiên phong tham gia gánh vác 3 trụ cột của nền kinh tế số Việt Nam.
Tầm nhìn với Mobifone, phát triển trở thành một trong những doanh nghiệp viễn thông chủ lực quốc gia về cung cấp các dịch vụ viễn thông, phát triển dịch vụ viễn thông di động sử dụng các công nghệ nâng cấp và công nghệ mới, tập trung phát triển dịch vụ dữ liệu trên nền mạng di động và các dịch vụ tích hợp và dịch vụ giá trị gia tăng. Điều chỉnh MobiFone từ doanh nghiệp khai thác viễn thông truyền thống sang doanh nghiệp số, tạo động lực cho sự phát triển các lĩnh vực kinh doanh - kỹ thuật - đầu tư.
Còn với Viettel là định hướng Xây dựng và phát triển TĐ Công nghiệp - Viễn thông Quân đội trở thành TĐ kinh tế năng động, hiện đại, có năng lực cạnh tranh cao trong nước và nước ngoài, vươn ra thị trường quốc tế để hiện thực hóa trở thành một TĐ kinh doanh toàn cầu.
Đã có ý kiến cho rằng, việc lựa chọn thí điểm 7 TĐKT, TCty là phù hợp, cho dù cả VNPT, MobiFone, Viettel tuy là cùng mảng viễn thông nhưng lại có những định hướng khác nhau nên không giẫm chân trong lĩnh vực hoạt động.
Tuy nhiên, nếu nhìn vào các doanh nghiệp và lĩnh vực mang tính mở đường có thể thấy một mảng rất lớn đang thiếu là hạ tầng, đặc biệt là hạ tầng giao thông. Trên thực tế, hoạt động của các doanh nghiệp chủ lực của ngành Giao thông lại chưa làm ăn hiệu quả. Về vấn đề này, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cũng đưa ra đề xuất: “Kể cả một số doanh nghiệp, lĩnh vực có thể chưa tốt nhưng cần thì vẫn có thể đưa vào Đề án để phát triển mạnh lên, dẫn dắt doanh nghiệp trong nước, chứ không chỉ lựa chọn những doanh nghiệp, lĩnh vực đang làm ăn tốt. Tranh thủ cơ hội để giúp doanh nghiệp trỗi dậy, đất nước bứt phá”.
Các doanh nghiệp này, theo đề xuất ban đầu, gồm 3 doanh nghiệp thuộc lĩnh vực công nghiệp công nghệ cao (Viettel, VNPT, MobiFone), 2 doanh nghiệp thuộc lĩnh vực năng lượng tái tạo (Tập đoàn Điện lực EVN và Tập đoàn Dầu khí PVN), 1 doanh nghiệp thuộc lĩnh vực cảng biển và logistics là Tổng công ty Tân Cảng Sài Gòn, và Vietcombank thuộc lĩnh vực tài chính – ngân hàng.
Ngoài tổng tài sản sản trên 20 nghìn tỷ đồng, các tiêu chí chung khác của các doanh nghiệp này là chiếm thị phần từ 30% trở lên, bảo đảm các quy định về cạnh tranh; ROE (lợi nhuận trên vốn) lớn hơn 6; được quản trị tốt trên cơ sở nguyên tắc OECD…
Các tiêu chí để xác định ngành, lĩnh vực để nghiên cứu thí điểm cơ chế, chính sách phù hợp là: Có tính chất mở đường, dẫn dắt; hướng tới làm chủ công nghệ số; có vai trò cần thiết trong phát triển, định hướng công nghiệp; cần thiết duy trì sự hiện diện của Nhà nước.
Giao quyền chủ động, tự quyết cho DNNN
Theo ông Lê Mạnh Hùng, Cục trưởng Cục Phát triển doanh nghiệp (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), các mục tiêu của Đề án là củng cố, phát triển một số DNNN đóng vai trò dẫn dắt, mở đường, kết nối được với khu vực doanh nghiệp tư nhân; làm chủ được công nghệ; hình thành các chuỗi đổi mới sáng tạo…
Cảng Cát Lái (Tổng công ty Tân cảng Sài Gòn) – một trong những doanh nghiệp được đề cử thí điểm phát triển thành “cánh chim đầu đàn”.
“Có tính chất mở đường” được hiểu là theo nghĩa là hướng đến các ngành, lĩnh vực mới, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước, còn “dẫn dắt” theo nghĩa là hướng đến các ngành hình thành các chuỗi liên kết, chuỗi giá trị, thúc đẩy đổi mới sáng tạo gắn với sự tham gia của doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác, hướng tới xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ, bền vững, ông Hùng giải thích.
Dự thảo Đề án cũng đề xuất các chính sách chung, với nguyên tắc phù hợp các định hướng phát triển kinh tế - xã hội, tuân thủ các cam kết quốc tế, không làm méo mó các quan hệ trên thị trường, tạo sự cạnh tranh, bình đẳng và tăng cường minh bạch, công khai của chính sách.
Theo đó, nghiên cứu, xây dựng hệ thống cơ chế, chính sách theo hướng đổi mới quản lý của chủ sở hữu, tạo điều kiện cho DNNN được hoạt động bình đẳng, chủ động và cạnh tranh với các doanh nghiệp khác. Nhà nước quản lý theo mục tiêu: giao quyền chủ động, tự quyết trong sản xuất kinh doanh, đầu tư cho doanh nghiệp… Kiểm tra, giám sát theo hướng đánh giá hiệu quả hoạt động/đầu tư theo chỉ tiêu tài chính tổng thể, không đi theo từng dự án/hoạt động cụ thể.
Trao quyền hoặc giao nhiệm vụ cho một số DNNN để phát triển các hạ tầng nền tảng để có thể ứng dụng kinh tế chia sẻ, đẩy mạnh phát triển công nghệ số trong tương lai với một số chính sách thử nghiệm có kiểm soát đối với các sản phẩm, dịch vụ, mô hình kinh doanh mới ứng dụng công nghệ số (sand box).
Về cơ chế riêng với các lĩnh vực, Đề án đề xuất cơ chế khuyến khích phát triển dịch vụ số, nghiên cứu hình thành Quỹ phát triển công nghệ cho Viettel; ban hành cơ chế hỗ trợ việc kết nối các cụm cảng; với lĩnh vực tài chính – ngân hàng, nghiên cứu hoạt động ngân hàng đầu tư (investment banking), hình thành quỹ đầu tư trong đó có đầu tư mạo hiểm…
Phải làm chủ công nghệ lõi
Phát biểu tại cuộc họp, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng đề nghị các đại biểu góp ý về các vấn đề như, các doanh nghiệp được đề xuất lựa chọn đã phù hợp chưa? Lĩnh vực hàng không hay Tổng công ty Đầu tư phát triển đường cao tốc (VEC) có nên được nghiên cứu, xem xét đưa vào Đề án không? Cơ chế chính sách như dự kiến đề xuất đã đủ mạnh chưa? Trong bối cảnh có rất nhiều cơ hội, nên chăng phải chấp nhận rủi ro, mạo hiểm để tận dụng được cơ hội chứ không “bó tay bó chân” doanh nghiệp, tất nhiên phải đi kèm việc giám sát hiệu quả.
“Thậm chí, kể cả một số doanh nghiệp, lĩnh vực có thể chưa tốt nhưng cần thì vẫn có thể đưa vào Đề án để phát triển mạnh lên, dẫn dắt doanh nghiệp trong nước, chứ không chỉ lựa chọn những doanh nghiệp, lĩnh vực đang làm ăn tốt. Tranh thủ cơ hội để giúp doanh nghiệp trỗi dậy, đất nước bứt phá”, Bộ trưởng nói.
Nhắc lại những quan điểm lớn về phát triển DNNN được khẳng định trong văn kiện Đại hội XIII của Đảng, Bộ trưởng cho biết, đây là yêu cầu, đòi hỏi lớn, bức thiết của đất nước trong giai đoạn tới. Thực hiện Nghị quyết Đại hội, Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu Bộ Kế hoạch và Đầu tư nghiên cứu xây dựng Đề án này.
Hiện DNNN số lượng không lớn, chỉ chiếm khoảng 0,07% số doanh nghiệp cả nước, nhưng đóng góp tới 7% tổng tài sản, 10% tổng vốn các doanh nghiệp trên thị trường và 30% GDP, chưa kể tới đóng góp về lao động, việc làm và vai trò điều tiết, ổn định thị trường khi có bất ổn, góp phần bảo đảm an sinh xã hội, quốc phòng - an ninh…
“Tôi muốn nhấn mạnh vai trò của DNNN phải thực sự là những con chim đầu đàn, dẫn dắt, lan tỏa khu vực doanh nghiệp khác. Chủ trương cổ phần hóa, thoái vốn là đúng đắn để DNNN tập trung vào những vấn đề mới, lớn, khó, còn lại để cho doanh nghiệp tư nhân làm. Đại hội XIII cũng đặt mục tiêu rất rõ tới các mốc năm 2025, 2030 và 2045, phải xây dựng được một nền kinh tế có tính tự chủ cao hơn, sức chống chịu tốt hơn. Muốn vậy, phải phát triển, làm chủ được công nghệ”, Bộ trưởng phát biểu.
Nhắc tới các yếu tố như cách mạng công nghiệp lần thứ 4, dịch bệnh COVID-19, cạnh tranh thương mại giữa các nước lớn, các FTA mà Việt Nam đã tham gia, Bộ trưởng khẳng định đây là cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam bắt kịp, tiến cùng và vượt lên các doanh nghiệp trên thế giới.
Bộ trưởng cũng đề cập nhiều vấn đề liên quan tới DNNN cần tiếp tục cân nhắc, nghiên ứu như có nên phân công một cơ quan riêng để thực hiện quản lý nhà nước về DNNN? Thoái vốn Nhà nước đến đâu, thoái tiếp thế nào? Có phát triển tiếp các tập đoàn mới không? Phát triển đường sắt trong giai đoạn tới có thể cần nguồn vốn hàng chục tỷ USD, có nên phát triển một doanh nghiệp lớn về đường sắt để làm chủ công nghệ không? Đâu là những rào cản lớn với các doanh nghiệp, cần xử lý thế nào?...
Đồng tình với quan điểm phải làm chủ công nghệ như phát biểu của Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng, Chủ tịch, Tổng Giám đốc Tập đoàn Viettel Lê Đăng Dũng nhấn mạnh, muốn hiện thực hóa khát vọng năm 2045 thì phải có công nghệ phát triển và Việt Nam 2045 phải là một xã hội số văn minh. Cả ông Dũng và Phó Tổng Giám đốc VNPT Huỳnh Quang Liêm đều nhắc đi nhắc lại yêu cầu phải làm chủ các nền tảng công nghệ lõi.
“Chúng ta phải làm chủ công nghệ lõi, nếu không thì không bao giờ vượt qua được bẫy thu nhập rung bình chứ chưa nói đến thu nhập cao”, ông Dũng nói và nhắc tới việc tháo gỡ các vướng mắc về cơ chế chính sách để phát triển, ứng dụng các công nghệ mới.
Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng khẳng định các ý kiến tại cuộc họp sẽ được Bộ báo cáo Thủ tướng Chính phủ trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Đề án.
Minh Hoa