CEO FPT Nguyễn Văn Khoa: Việt Nam đang hình thành một nguồn nhân lực mới có thể hỗ trợ R&D, giám sát sản xuất thông minh...
Một nguồn nhân lực mới đang hình thành ở Việt Nam
Trong khuôn khổ Diễn đàn Kinh tế tư nhân Việt Nam (VPSF) 2025 ngày 15/9, phiên chuyên đề "Khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo - Sức bật để vươn mình", ông Nguyễn Văn Khoa, Tổng Giám đốc FPT, Phó Chủ tịch Hội Doanh nhân trẻ Việt Nam, Chủ tịch VINASA nhận định sở dĩ nói hiện nay là "thời điểm vàng" cho sự phát triển của khoa học công nghệ và khu vực kinh tế tư nhân là nhờ sự ra đời của "Bộ tứ trụ cột" gồm Nghị quyết 68 về phát triển kinh tế tư nhân, Nghị quyết 57 về khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, Nghị quyết 59 về ngoại giao kinh tế, Nghị quyết 66 về hoàn thiện thể chế.
Đặc biệt, 2 dự thảo là Dự thảo Luật Công nghiệp Công nghệ số: Xây dựng khung pháp lý toàn diện cho các lĩnh vực công nghệ số trọng điểm (AI, bán dẫn, tài sản số) và Dự thảo Luật Đầu tư (sửa đổi) hướng đến đơn giản hóa thủ tục, thu hẹp diện dự án phải xin chủ trương, chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm và tăng phân cấp cho địa phương, được kì vọng sẽ tạo nền tảng pháp lý đột phá cho doanh nghiệp.

Ông Nguyễn Văn Khoa, Tổng Giám đốc FPT, Phó Chủ tịch Hội Doanh nhân trẻ Việt Nam, Chủ tịch VINASA: hiện nay là "thời điểm vàng" cho sự phát triển của khoa học công nghệ và khu vực kinh tế tư nhân
Liên quan đến lĩnh vực công nghệ, CEO FPT cho biết doanh thu xuất khẩu dịch vụ công nghệ thông tin đạt 15 tỷ USD năm 2024, tăng trưởng 2 con số nhiều năm liền. Việt Nam cũng có lợi thế lớn về nguồn nhân lực công nghệ, với 100 triệu dân, gần 70% trong độ tuổi lao động. Riêng lĩnh vực công nghệ thông tin có 1,5 triệu lao động, tăng trưởng 10–12%/năm, tương đương 120.000 kỹ sư công nghệ mới.
Bên cạnh đó, Việt Nam đang hình thành một "nguồn nhân lực mới": Digital Workers – AI Agents. Đây là lực lượng lao động ảo có thể hỗ trợ nghiên cứu và phát triển (R&D), giám sát sản xuất thông minh, chăm sóc khách hàng 24/7, hay quản lý vận hành nội bộ. Điều này mở ra khả năng Việt Nam không chỉ xuất khẩu kỹ sư công nghệ, mà còn xuất khẩu lực lượng số hóa tham gia trực tiếp vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Mặc khác, CEO FPT cũng chỉ ra rằng mặc dù nhiều luật, nghị quyết đã ban hành cơ chế khấu trừ 200% chi phí R&D khi tính thuế TNDN tuy nhiên thủ tục còn phức tạp và thiếu hướng dẫn gây khó khăn cho doanh nghiệp. Theo đó, ông Khoa mong muốn Chính phủ sớm ban hành hướng dẫn chi tiết để tạo thuận lợi cho cộng đồng doanh nghiệp nói chung.
Về đào tạo nhân lực, ông Khoa lưu ý các ngành như AI, bán dẫn, công nghệ sinh học cần đầu tư lớn và thời gian chuẩn bị dài. Nếu chỉ để cơ chế tự chủ, các trường khó mạnh dạn mở ngành vì lo ngại thiếu đầu ra. Theo đó, ông đề xuất Chính phủ giao chỉ tiêu đào tạo nhân lực công nghệ chiến lược cho các trường đại học, cao đẳng, nhằm giải quyết tận gốc bài toán nhân lực cho doanh nghiệp.
Ngoài ra, CEO FPT cũng đưa ra nhiều đề xuất về mô hình huy động vốn cho công nghệ cũng như kỳ vọng công cuộc cải cách thể chế tiếp tục cắt bỏ các thủ tục, quy định chồng chéo và điều kiện kinh doanh không cần thiết...
Đề xuất sớm thí điểm các cơ chế nuôi lớn khu vực kinh tế tư nhân
Trong khi đó, theo bà Trương Lý Hoàng Phi, Phó chủ tịch Hội Doanh nhân trẻ TP HCM, CEO IBP/InnoEx, định hướng quốc gia về khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đã rất rõ trong các nghị quyết quan trọng. Tuy nhiên, khi đi vào thực tiễn, điều doanh nghiệp tư nhân cảm nhận rõ nhất lại là khoảng cách từ chủ trương đến hành động. Luật và nghị quyết đã có, nhưng hướng dẫn thi hành cụ thể thì chưa đủ rõ ràng và thiếu nhất quán, khiến doanh nghiệp khó tiên liệu để đầu tư dài hạn.

Bà Trương Lý Hoàng Phi, Phó chủ tịch Hội Doanh nhân trẻ TP.HCM phát biểu tại phiên chuyên đề “Khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo - Sức bật để vươn mình”
Bà Trương Lý Hoàng Phi chỉ ra 6 nhóm điểm nghẽn chính đang khiến khu vực tư nhân khó bứt phá.
Thứ nhất là thiếu hụt nhân lực chất lượng cao. Doanh nghiệp khan hiếm lao động số, quản trị hiện đại và tay nghề kỹ thuật. Sinh viên tập trung chủ yếu tại các thành phố lớn, trong khi nhiều địa phương không đủ nguồn cung nhân lực, dẫn tới hạn chế khả năng ứng dụng công nghệ.
Thứ hai, rào cản thể chế và thủ tục. Quy định chồng chéo, thiếu nhất quán khiến doanh nghiệp gặp khó trong phê duyệt dự án, đặc biệt ở các lĩnh vực đầu tư, phòng cháy chữa cháy, quy định chuyên ngành. Sự thiếu minh bạch trong cơ chế hậu kiểm cũng làm tăng rủi ro pháp lý, gây tâm lý e ngại cho doanh nghiệp.
Thứ ba, khó tiếp cận vốn. Phần lớn doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ và khởi nghiệp khó vay tín dụng vì yêu cầu thế chấp cao. Nguồn vốn dài hạn cho nghiên cứu, phát triển (R&D) và đổi mới sáng tạo chưa đa dạng, trong khi các quỹ mạo hiểm, quỹ bảo lãnh tín dụng còn thiếu hoặc hoạt động kém hiệu quả.
Thứ tư, hạ tầng và hệ sinh thái yếu. Nhiều địa phương thiếu trung tâm đổi mới sáng tạo, vườn ươm, không gian khởi nghiệp. Chi phí logistics chiếm tới 16 - 17% GDP, cao hơn nhiều so với mức trung bình toàn cầu, làm giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
Thứ năm, thương mại hóa nghiên cứu còn hạn chế. Liên kết giữa viện - trường - doanh nghiệp lỏng lẻo, nhiều công trình khoa học chưa đi vào thực tiễn. Chính sách thuế cho chuyển giao công nghệ chưa đủ hấp dẫn, trong khi khung pháp lý bảo hộ sở hữu trí tuệ trong môi trường số còn bất cập.
Thứ sáu, cạnh tranh từ doanh nghiệp Nhà nước khiến sân chơi của doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME), doanh nghiệp khởi nghiệp có phần thu hẹp, hạn chế.
Các điểm nghẽn này không tồn tại riêng lẻ, mà liên kết với nhau thành vòng luẩn quẩn, khiến khu vực tư nhân khó bứt phá. Thể chế phức tạp làm tăng chi phí, hạn chế đầu tư đổi mới; thiếu nhân lực khiến công nghệ khó hấp thụ; từ đó khó tiếp cận vốn và toàn bộ hệ sinh thái bị kìm hãm".
Để tháo gỡ tận gốc, đại diện Hội Doanh nhân trẻ TP HCM nhấn mạnh tầm quan trọng của việc chuyển đổi triết lý hành động từ Chính phủ "quản lý" sang "phục vụ, đồng hành, kiến tạo"; doanh nghiệp từ "tham vấn" sang "đồng kiến tạo". Theo đó, đề xuất 3 hướng sáng kiến lớn.
Về thể chế và thực thi, nhiều doanh nghiệp đề xuất thiết kế các cơ chế thử nghiệm (sandbox) thật đơn giản, có khung thời gian và hướng dẫn cụ thể. Đồng thời, cần thí điểm cơ chế “30–30–30”, tức giảm 30% thủ tục, 30% chi phí và 30% thời gian xử lý, một cách tiếp cận trực diện vào rào cản mà họ đang gặp phải.
Về tài chính và ưu đãi, cộng đồng doanh nghiệp mong đợi các công cụ thực chất như khấu trừ chi phí nghiên cứu và phát triển (R&D), hoàn thuế nhanh, hay cơ chế "làn xanh" cho phát hành công khai lần đầu (IPO) và trái phiếu đổi mới. Đa số ý kiến đều cho rằng có thể bắt đầu thí điểm trong các lĩnh vực mũi nhọn như AI, công nghệ xanh, nông nghiệp số.. trước khi mở rộng.
Về hệ sinh thái hỗ trợ, nhiều doanh nghiệp nhấn mạnh vai trò của các trung tâm đổi mới sáng tạo, vườn ươm, nền tảng kết nối do khu vực tư nhân vận hành. Nếu được Nhà nước hỗ trợ về đất đai, thuế và khung pháp lý, đây sẽ là "cánh tay nối dài" giúp chính sách đi vào thực tiễn nhanh và linh hoạt hơn.
Tất cả những sáng kiến này đều phản ánh rõ một tinh thần, doanh nghiệp tư nhân đã sẵn sàng đổi mới, điều họ cần là chính sách đồng hành một cách thiết thực, từ đó doanh nghiệp biết rõ phải làm gì và có niềm tin vào một sân chơi công bằng.
Đổi mới sáng tạo và khoa học công nghệ chính là sức bật để doanh nghiệp tư nhân vươn mình. Khi Chính phủ và doanh nghiệp cùng kiến tạo, cùng hành động, mọi sáng kiến sẽ không dừng ở ý tưởng mà trở thành tăng trưởng thực chất.