Chuyển đổi xanh: Nhà nghiên cứu lo gánh nặng chi phí, doanh nghiệp lớn nhìn thấy cơ hội đầu tư
Về lý thuyết, doanh nghiệp nào cũng biết những lợi ích của chuyển đổi xanh hay sản xuất xanh; tuy nhiên, câu hỏi đầu tiên vẫn là “tiền đâu?”. Câu hỏi thứ hai, “chuyển đổi xanh là đầu tư hay chi phí?”.
Còn thực tế là tùy mỗi cá nhân và quy mô doanh nghiệp mà có mỗi góc nhìn khác nhau. Với các nhà nghiên cứu đến từ ĐH Khoa học Tự nhiên – Đại học quốc gia TP HCM, thì chuyển đổi xanh chính là chi phí; với Vinamilk hay SCG, chuyển đổi xanh là đầu tư; còn với doanh nghiệp truyền thống như chủ thương hiệu Bột bánh xèo Hương Xưa, chuyển đổi xanh là cần thiết nhưng không cần quá gấp gáp.
Các doanh nghiệp nên kiếm tiền vừa phải, “hoàn” một phần lại cho môi trường
Trong sự kiện UniTour do BSA tổ chức vào tuần trước, theo TS Lê Tự Thành - Trưởng khoa Môi trường, Trường ĐH Khoa học Tự nhiên, có hai thách thức khiến mối quan hệ hợp tác R&D giữa các trường đại học và doanh nghiệp chưa bền chặt.
Đầu tiên, các công trình nghiên cứu hoặc đổi mới – sáng tạo cần thời gian, đòi hỏi doanh nghiệp và các trường đại học phải đi đường dài cùng nhau. Trong khi, do áp lực cạnh tranh lớn trên thị trường, khía cạnh nào doanh nghiệp cũng muốn nhanh, từ R&D cho đến ra sản phẩm/giải pháp mới. Đây là mâu thuẫn không dễ giải quyết.
Thứ hai, ở các trường đại học, quy mô hóa học lúc làm thí nghiệm chỉ từ vài chục gam hoặc ml, còn lúc ứng dụng vào hoạt động của doanh nghiệp thì quy mô phải mở rộng lên vài chục hoặc vài trăm lần; nên rất khó để kiểm soát quy trình.
Đầu ra thường thấy nhất của các công trình nghiên cứu trong trường đại học là các bài báo khoa học, còn để áp dụng vào kinh doanh sẽ gặp nhiều thách thức. Vậy nên, ông muốn được doanh nghiệp hỗ trợ để làm thử nghiệm trên quy mô lớn hơn.
TS Lê Tự Thành - Trưởng khoa Môi trường, Trường ĐH Khoa học Tự nhiên (Ảnh: BSA Media)
Ông nêu ví dụ: ông từng gặp một doanh nghiệp sản xuất lớn trong ngành đông lạnh, chủ công ty than thở là ông đã tốn rất nhiều thời gian để gặp các giáo sư, tiến sỹ nhưng khi đề nghị xử lý lượng nước thải trên một tấn, thì ai cũng trả lời là không làm được.
“Tuy nhiên, mong muốn này của chúng tôi lại gặp một điểm nghẽn quan trọng. Quy mô thử nghiệm lớn đi kèm với chi phí cao, điều này lại rất rủi ro cho doanh nghiệp do không biết kết quả R&D là ‘buồn’ hay ‘vui’. Biện pháp hữu hiệu nhất là Nhà nước nên chọn lọc các dự án nghiên cứu trong các cơ quan Nhà nước hoặc doanh nghiệp để đầu tư trọng điểm.”, ông kiến nghị.
Theo quan sát của ông, chi phí và lợi nhuận là một thách thức lớn khi thực hành chuyển đổi xanh. Vì mua nước bình thường để sản xuất rẻ hơn so với dòng nước tuần hoàn. Hay nói cách khác, những sản phẩm sử dụng nước hoặc nguyên vật liệu tái chế sẽ mắc hơn bình thường.
“Những doanh nghiệp sau khi đã kiếm được tiền rồi, thì nên nghĩ đến việc kiếm tiền vừa phải, dành một phần “hoàn” lại cho môi trường, phục hồi hệ sinh thái.”, TS Lê Tự Thành bày tỏ.
Bổ sung cho đồng nghiệp, PGS. TS Ngô Đại Nghiệp – Trưởng phòng Quan hệ đối ngoại của Trường ĐH Khoa học Tự nhiên tiết lộ, khi đi tư vấn cho các doanh nghiệp ông có nhận được lương. Sau đó, ông dùng số lương này để đầu tư trang thiết bị nghiên cứu có dung tích lớn hơn - từ 20 lít đến 60 lít, để gần hơn với nhu cầu của doanh nghiệp hơn.
Đầu tư vào chuyển đổi xanh sẽ giảm chi phí cho các khía cạnh khác
“Với SCG, chuyển đổi xanh là chiến lược kinh doanh toàn diện và dài hạn. Sản xuất xanh giúp Tập đoàn giảm chi phí và gia tăng hiệu quả đầu tư. Ví dụ: doanh nghiệp sử dụng nguyên liệu tái chế tức giảm chi phí nguyên liệu đầu vào và giảm chi phí giải quyết vấn đề phát thải.”, ông Nguyễn Ngọc Thành - Giám đốc Marketing, Công ty CP Sản xuất Nhựa Duy Tân nêu cụ thể.
Ông Nguyễn Ngọc Thành - Giám đốc Marketing, Công ty CP Sản xuất Nhựa Duy Tân đang giới thiệu về bộ bàn ghế làm từ giấy được SCG mang đến sự kiện. (Ảnh: BTC)
Ông Nguyễn Ngọc Thành đã đại diện cho Tập đoàn SCG tham gia vào Talkshow "Vai trò tiêu dùng xanh trong thúc đẩy phát triển bền vững” do báo Tuổi Trẻ tổ chức cách đây chưa lâu.
Ông dẫn chứng kinh nghiệm tại một số lĩnh vực cụ thể. Trong ngành xi măng, SCG đã thu hồi nhiệt dư và chuyển đổi một phần thành năng lượng sử dụng cho sản xuất hằng năm. Tất cả đã giúp doanh nghiệp tăng lợi thế cạnh tranh khi xuất khẩu sang thị trường Mỹ hoặc châu Âu.
Ở lĩnh vực nhựa, tại Công ty Nhựa Duy Tân, SCG đầu tư giảm trọng lượng bao bì, tăng tỷ lệ sử dụng nguyên liệu tái chế khi sản xuất sản phẩm. Điều này vừa giúp giữ chân được khách hàng vừa thu hút được nhân tài. Trong một khảo sát gần đây cho thấy, 70% giới trẻ quan tâm đến tiêu dùng xanh.
Hơn nữa, với năng lực sản xuất nhựa tái chế tiêu chuẩn thực phẩm, đã giúp Nhựa Duy Tân trở thành đối tác tin cậy của Nestle, Unilever…và dần trở thành nhà cung cấp các giải pháp bền vững dài hạn cho các công ty toàn cầu đang hoạt động tại Việt Nam, mang lại lợi thế kinh doanh trong dài hạn.
Vậy nên, theo ông, doanh nghiệp nên thay đổi góc nhìn, hãy phát triển xanh không phải là chi phí mà là đầu tư thiết yếu cho tương lai, giúp giảm đầu tư vào các khoảng khác.
“Để bắt đầu con đường phát triển xanh, các SMEs không cần đầu tư quá nhiều tiền mà có thể thử những cái nhỏ trước, ví dụ như thử sử dụng vật liệu tái chế khi sản xuất hay tối ưu hóa việc sử dụng năng lượng. Tuy nhiên, dù làm gì thì cũng nên đo lường được, bởi nếu không, những nỗ lực chuyển đổi xanh của doanh nghiệp sẽ không có căn cứ cụ thể khi được yêu cầu chứng minh.”, đại diện của SCG cho hay.
Đồng quan điểm, ông Lê Hoàng Minh - Giám đốc điều hành Sản xuất kiêm Trưởng dự án Net Zero của Vinamilk cũng khuyên các SMEs nên bắt đầu chuyển đổi xanh từ những hành động nhỏ nhặt như tiết kiệm điện, tiết kiệm nước.
Bên trong một nhà máy Net Zero của Vinamilk. (Ảnh: Vinamilk)
Ông cho rằng, với nguồn lực hạn chế, SMEs không nhất thiết đầu tư quá mức hay đổ nhiều tiền đổi mới công nghệ như những anh lớn giống Vinnamilk hay SCG.
SMEs nên chuyển đổi từng bước, tiến hành tối ưu hóa khi sử dụng nguồn điện, nước hay năng lượng…; giúp giảm phát thải và dần sản xuất xanh hơn. Rồi khi doanh nghiệp phát triển đến một mức độ nào đó, sẽ có chút vốn cộng với kêu gọi thêm “tài chính xanh”, đủ để đầu tư công nghệ mới hoặc những giải có tính đột phá.
Hiện Vinamilk đã có hai nhà máy và một trang trại đạt chuẩn Net Zero được đầu tư công nghệ mới với nguồn vốn lớn, cùng quy mô sản xuất lớn và khả năng tự động hóa cao. Có những nhà máy của Vinamilk hoàn toàn tự động hóa, nhân viên chỉ có trách nhiệm bảo trì chứ không cần vận hành. Có nhà máy của Vinamilk sở hữu năng suất tiệm cận những nhà máy hàng đầu thế giới.
“Dù Vinamilk đầu tư vốn lớn nhưng thu lại hiệu quả cao và kinh doanh tăng trưởng tích cực hàng năm.”, đại diện Vinamilk cho biết.
Các doanh nghiệp truyền thống có tham gia chuyển đổi xanh nhưng không gấp gáp
Cũng trong UniTour, bà Từ Lê Thanh Vy, Phó Tổng Giám đốc Công ty Liên doanh Bột Quốc tế - Intermix, đã chia sẻ câu chuyện chuyển đổi sản phẩm theo hướng xanh hơn trong doanh nghiệp của mình.
Intermix có 23 năm tuổi, sản xuất và kinh doanh 300 loại sản phẩm bột trộn sẵn và có cả nhà máy sản xuất bột gạo. Họ có hai nhà máy sản xuất các loại bột theo công nghệ Nhật Bản và châu Âu, với quy mô lớn nhất nhì Việt Nam, cùng tổng vốn đầu tư 800 tỷ đồng, quy mô 20.000 – 30.000 tấn/năm.
Doanh nghiệp kinh doanh ở cả hai kênh là B2C và B2B (như các nhà máy chế biến thủy hải sản xuất khẩu), đồng thời xuất khẩu đến khoảng 30 quốc gia. Sản phẩm tiêu biểu nhất của doanh nghiệp này chính là Bột bánh xèo Hương Xưa đình đám ở miền Nam.
“Kể cả với ngành rất truyền thống sản xuất bột trộn sẵn và bột gạo như chúng tôi, cũng không thể đứng yên nếu muốn giữ được người tiêu dùng. Chúng tôi phải làm mới sản phẩm liên tục thì khi đưa ra thị trường mới thu hút được người tiêu dùng.”, bà chia sẻ.
Theo bà, áp lực đổi mới bây giờ không chỉ nằm ở chuyện ra sản phẩm mới, mà là ra sản phẩm mới phải theo chuẩn xanh từ nguyên liệu, phụ gia, đến bao bì…; tức xanh phải bao trùm cả toàn chuỗi cung ứng.
Theo đó, hiện Intermix đang đi tìm các nguyên liệu xanh để thay thế phụ gia hóa học. Trong ngành bột trộn, phụ gia là thành phần khó tránh khỏi. Tuy nhiên, bà Thanh Vy cho biết Intermix đã chủ động dịch chuyển sang sử dụng phụ gia là những nguyên liệu có nguồn gốc tự nhiên, an toàn hơn và vẫn giữ được hương vị và kết cấu sản phẩm.
Theo quan sát của bà, bên cạnh các phụ gia đã đạt chuẩn “Eco”, trên thị trường hiện nay đã xuất hiện nhiều loại nguyên liệu tự nhiên, không mang nhãn “Eco” nhưng có hồ sơ công bố an toàn rõ ràng, cho phép tạo nên sản phẩm có hương vị, độ nở, kết cấu… tương đương.
Bà Từ Lê Thanh Vy, Phó Tổng Giám đốc Công ty Liên doanh Bột Quốc tế - Intermix (Ảnh: BSA Media)
Về chuyển đổi bao bì, Intermex sẵn sàng chấp nhận chi phí cao để đi theo xu hướng tái chế và thân thiện môi trường.
“Thực tế là việc chuyển sang bao bì tái chế hoặc bao bì giấy/vật liệu thân thiện với môi trường, vừa đảm bảo an toàn thực phẩm vừa bảo quản sản phẩm được lâu dài, sẽ khiến chi phí đội lên rất nhiều. Nhưng công ty vẫn hướng tới áp dụng những loại bao bì đó vào sản phẩm của mình, để mang lại trải nghiệm ‘xanh’ hơn cho người tiêu dùng của Mikko Hương Xưa.”, bà nhấn mạnh.
Bao bì không chỉ là “cái áo” bên ngoài, mà là một phần cam kết xanh của doanh nghiệp mà khách hàng có thể tiếp xúc đầu tiên và trực tiếp. Cũng như thế, khi thị trường quốc tế ngày càng chú ý đến vòng đời sản phẩm, từ nguyên liệu đầu vào đến xử lý rác thải bao bì đầu ra, doanh nghiệp buộc phải tính đường dài, không thể dừng ở chuyện “bán được là xong”.
Tiếp theo, Intermix cũng đang tìm nguồn cung lúa gạo sạch để đi xa hơn trên thị trường xuất khẩu.
Bà Thanh Vy cho biết, mục tiêu lâu nay của công ty là chuẩn hóa vùng nguyên liệu gạo không sử dụng kháng sinh, thuốc trừ sâu vượt ngưỡng, nhằm đáp ứng yêu cầu kiểm nghiệm rất chặt chẽ của các thị trường nhập khẩu.
“Hiện nay nhiều nước kiểm tra dư lượng thuốc trừ sâu rất nghiêm ngặt. Nếu muốn sản phẩm bột gạo đi xa hơn, xuất được đi nhiều nước hơn, thì bản thân nguồn lúa gạo phải ‘xanh’ và ‘sạch’. Công ty cũng đang mở rộng tìm kiếm các nguồn lúa gạo như vậy vì nhu cầu tiêu dùng, xuất khẩu ngày càng tăng. Team R&D của công ty hiện đang tìm kiếm những nguồn liệu xanh mới cả trong nước lẫn quốc tế.
Đây là bước đi chắc chắn để các sản phẩm từ gạo – như bột trộn sẵn, các dòng bột phục vụ chế biến, có thể tham gia sâu hơn vào các chuỗi hàng thực phẩm chế biến xuất khẩu, vốn gắn chặt với tiêu chuẩn an toàn thực phẩm và truy xuất nguồn gốc.”, bà giải thích.
Tuy nhiên, Intermix không ưu tiên gạo hoặc các nguyên liệu bột hữu cơ. Hiện các sản phẩm của công có giá từ 15.000 đến 30.000 đồng, nếu sử dụng các loại bột hữu cơ thì sẽ phải tăng giá cao, không thể tiếp cận được nhiều người tiêu dùng đại chúng như hiện tại. Còn nếu có sản xuất bột hữu cơ, thì công ty nhiều khả năng sẽ ra một dòng sản phẩm mới cao cấp hơn.