Đảm bảo an ninh nguồn nước thì quốc gia mới phát triển bền vững

19:30 | 16/09/2021 Doanh Nhân Việt Nam trên Doanh Nhân Việt Nam trên
Chia sẻ
Bộ NN-PTNT cho biết, an ninh nguồn nước (ANNN) là loại hình an ninh phi truyền thống, liên quan đến các yếu tố tự nhiên, kinh tế, xã hội từ cả bên trong và bên ngoài lãnh thổ, tác động đến ổn định, phát triển bền vững của quốc gia.

Hiện nay, đề án ANNN đang gấp rút hoàn thành để trình Chính phủ, sau đó sẽ được Quốc hội thông qua. Cơ quan được giao chủ trì đề án là Bộ NN-PTNT, phối hợp cùng các Bộ, ngành liên quan thực hiện. Bộ chủ trì cho biết, đề án đã có bản dự thảo, đang tiếp tục được các cơ quan chuyên môn chỉnh sửa, hoàn thiện.

Việc bảo đảm an ninh nguồn nước liên quan chặt chẽ tới sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.

Nội dung của đề án gồm cả ANNN và an toàn hồ, đập chứa nước giai đoạn 2021- 2030, tầm nhìn đến 2045.

Bộ NN-PTNT cho hay, nước đã trở thành tài nguyên chiến lược thứ hai sau tài nguyên con người nhưng đang suy thoái trầm trọng. Trên thế giới, đến năm 2025, ước tính có 1,8 tỷ người sẽ sống ở các khu vực hoặc quốc gia khan hiếm nước. Đến năm 2030, gần 50% dân số nằm trong vùng căng thẳng cao về nước.

Trong thời gian vừa qua, Việt Nam đã đầu tư và có nhiều giải pháp để bảo đảm ANNN và an toàn đập, hồ chứa nước. Tuy nhiên, quốc gia vẫn đang đứng trước nhiều vấn đề đặt ra với ANNN và an toàn đập, hồ chứa nước.

Đó là việc, nguồn nước mặt sản sinh trong lãnh thổ Việt Nam chỉ chiếm 37% tổng lượng nước mặt của quốc gia, sản sinh từ bên ngoài lãnh thổ chiếm tới 63%.

Các quốc gia thượng nguồn có xu hướng tăng cường đầu tư xây dựng các hồ chứa thủy điện, cấp nước cho sản xuất, dân sinh trong và ngoài lưu vực sông. Điều này sẽ làm trầm trọng tình trạng lũ, ngập lụt, hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn, xói lở bờ sông, bờ biển và ô nhiễm, suy thoái nguồn nước ở Việt Nam.

Nguồn nước cũng đang phải đối mặt với sự gia tăng mức độ ô nhiễm do nước thải sinh hoạt, công nghiệp, nông nghiệp, làng nghề, y tế và chất thải rắn không được kiểm soát.

Bộ trưởng NN-PTNT Lê Minh Hoan khẳng định, việc xây dựng đề án này nhằm đưa ra định hướng chiến lược, giải pháp căn cơ trước mắt và lâu dài là hết sức cần thiết và cấp bách.

Mục tiêu chung của đề án là bảo đảm số lượng, chất lượng nước cấp cho sinh hoạt trong mọi tình huống, đáp ứng nhu cầu nước cho sản xuất và các ngành kinh tế quan trọng, thiết yếu, giảm phụ thuộc vào các nguồn nước liên quốc gia.

Ứng phó hiệu quả với các loại hình thiên tai liên quan đến nước, thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường, bảo đảm sức khoẻ, đời sống, sản xuất của người dân.

Bảo đảm an toàn tuyệt đối đập, hồ chứa nước quan trọng; chủ động ứng phó khi có sự cố, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân; chủ động tích, trữ, điều hòa nguồn nước.

Để đạt được mục tiêu này, đơn vị chủ trì soạn thảo đề án cho rằng, cần thực hiện hàng loạt giải pháp đồng bộ, cụ thể từ cơ chế chính sách, tới việc huy động nguồn lực. Việc quy hoạch, điều tra cơ bản cũng phải được thực hiện chính xác, có tầm nhìn dài hạn.

Bộ NN-PTNT đưa ra dự kiến tối thiểu cần để thực hiện đề án đến năm 2030 là 610 nghìn tỷ đồng. Trong đó, ngân sách Trung ương khoảng 310 nghìn tỷ đồng. 300 nghìn tỷ đồng còn lại sẽ lấy từ ngân sách địa phương và huy động xã hội hóa để thực hiện. Lộ trình thực hiện đề án chia làm 2 giai đoạn là từ nay đến năm 2030 và 2031 – 2045.

Theo GS.TS Nguyễn Văn Tỉnh, Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy lợi (Bộ NN-PTNT), Việt Nam hiện đang đối mặt với khó khăn, thách thức từ thiếu hụt nguồn nước, biến đổi khí hậu, tác động của phát triển cả bên trong và bên ngoài lãnh thổ. Đặc biệt, khu vực nông nghiệp, nông dân, nông thôn sử dụng trên 80% tổng lượng nước, dễ bị tổn thương trước tác động của thiên tai do nước.

Ông Tỉnh cũng cho rằng, việc bảo đảm ANNN quốc gia phải được giải quyết đồng bộ với tái cơ cấu lại nền kinh tế và được thực hiện theo cách tiếp cận quản lý tổng hợp, đa mục tiêu, liên ngành, kết hợp hài hoà giải pháp công trình và phi công trình, trong đó kết cấu hạ tầng thủy lợi giữ vai trò quan trọng.

Thứ trưởng NN-PTNT Nguyễn Hoàng Hiệp báo cáo về đề án tại buổi thẩm tra của Quốc hội, ngày 9/9.

Ngày 9/9 vừa qua, Quốc hội đã tổ chức hội nghị thẩm tra đề án bảo đảm ANNN và an toàn hồ đập nêu trên do Bộ NN-PTNT soạn thảo.

Tại đây, Thứ trưởng NN-PTNT Nguyễn Hoàng Hiệp cho biết, ANNN của nước ta đang đứng trước nhiều nguy cơ, thách thức. Một số vùng có nguy cơ bị sa mạc hóa như Bình Thuận, Ninh Thuận. Cùng với đó, biến đổi khí hậu ảnh hưởng trực tiếp và nghiêm trọng đến an ninh nguồn nước, an toàn đập, hồ chứa nước và phát triển kinh tế - xã. Nguồn nước ở nhiều khu vực bị ô nhiễm trầm trọng. Trong khi tổng nhu cầu nước tăng cao theo từng năm.

Vị này cho biết thêm, nhiều công trình khai thác nguồn nước được xây dựng từ lâu đã xuống cấp, khó thay đổi công năng đáp ứng cho sản xuất quy mô lớn. Tỷ lệ thất thoát nước cho cấp nước đô thị và nông thôn còn ở mức cao (khoảng 25%). Hiện cả nước có 7.808 đập, hồ chứa nước với tổng dung tích khoảng 70,5 tỷ m3 nhưng công tác bảo trì chưa được quan tâm thường xuyên nên công trình bị hư hỏng, xuống cấp, suy giảm công năng phục vụ và tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn.

Các ý kiến trong cuộc thẩm tra, đa phần nhất trí cao với các nội dung của đề án. Một số ý kiến đề nghị rà soát kỹ lưỡng các mục tiêu, chỉ tiêu cụ thể của đề án để bảo đảm tính khả thi, gắn với nguồn lực thực hiện.

Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải đánh giá cao nỗ lực của các cơ quan của Chính phủ trong việc chủ trì xây dựng đề án. Ông Hải đề nghị cơ quản chủ trì xây dựng đề án cần làm việc khẩn trương song cũng bảo đảm thận trọng, đúng quy trình thủ tục, chất lượng để trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến và trình Quốc hội xem xét các nội dung theo đúng thẩm quyền.

Ngày hôm qua (15/9), tại trụ sở Bộ NN-PTNT, Tổng cục Thủy lợi tiếp tục có buổi họp báo cáo về việc hoàn thiện đề án nêu trên với sự chủ trì, tham dự của Bộ trưởng Lê Minh Hoan và Thứ trưởng Nguyễn Hoàng Hiệp.