Đẩy mạnh các kết nối, trao thực quyền quyết định cho từng vùng
16:16 | 21/08/2019
Doanh Nhân Việt Nam trên
Chia sẻ
(DNVN) - Sáng 20/8, tại Hội nghị Phát triển Kinh tế miền Trung, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Phó trưởng ban thường trực Ban chỉ đạo điều phối phát triển các vùng kinh tế trọng điểm Nguyễn Chí Dũng nhấn mạnh: Cần phải thoát ra các điểm nghẽn để việc phát triển kinh tế miền Trung thực sự mạnh mẽ hơn, bền vững hơn.
Phát biểu tại hội nghị, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng đánh giá rằng, vùng Duyên hải miền Trung đã thu được nhiều kết quả quan trọng sau 30 năm đổi mới, tình hình kinh tế xã hội có vùng có nhiều khởi sắc. Cụ thể, những năm gần đây, GRDP của vùng tăng trưởng cao hơn tỷ lệ chung của cả nước. Một số địa phương trước đây khó khăn nay đã tăng trưởng tốt như Quảng Bình, Phú Yên, Ninh Thuận. GRDP vùng tăng lên 2.574 USD/người. Riêng vùng kinh tế trọng điểm, GRDP hơn 2.600 USD, bằng mức bình quân chung của cả nước.
Ngoài sự đóng góp của các dự án công nghiệp, khu dịch vụ tăng trưởng tốt, nuôi trồng khai thác chế biến thủy hải sản của khu vực này phát triển mạnh. Thu ngân sách trong vùng đều đạt và vượt dự toán, tăng thu nội địa đặt trung bình 14,2%. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng bình quân 7%/năm, chiếm 20% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
Cùng với đó, chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh, chỉ số hiệu quả hành chính công không ngừng cải thiện trên bảng xếp hạng của cả nước. Năm 2018, khu vực này có 4 tỉnh thành nằm trong top đầu của cả nước về chỉ số hành chính công. Năm 2018, tỉ lệ doanh nghiệp thành lập mới cao, thu hút FDI tăng khá, đạt 12,2 tỷ USD.
Là thế mạnh của vùng, phát triển kinh tế biển tại đây được quan tâm chú trọng. Theo chiến lược phát triển kinh tế biển Việt Nam tầm nhìn 2030 đến 2045, các địa phương phát triển mạnh và điển hình như Đà Nẵng, Nha Trang, Phan Thiết, Huế; nhiều địa phương đã thu hút được nhà đầu tư chiến lược.
Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cũng dẫn lại, các khu kinh tế ven biển của Duyên hải miền Trung đã thu hút được một số dự án FDI quy mô lớn, có sức lan tỏa mạnh, như dự án lọc dầu Nghi Sơn, Dung Quất, Formosa... Tổng giá trị sản xuất trong nửa đầu năm 2019 đạt hơn 8 tỷ USD. Đi cùng với đó, hạ tầng đô thị ven biển cải thiện mạnh, năng lực tái tạo phát triển mạnh.
Những năm qua, kết nối hạ tầng quan trọng của vùng được quan tâm, với việc hoàn thành cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi, dự án cải tạo các đoạn xung yếu và chuẩn bị triển khai một số dự án như Cam Lộ, vùng có 14 nhóm cảng biển, trong đó có 8 nhóm cảng biển loại 1...
Trong giai đoạn 2016 - 2018, khu vực này đã tạo việc làm mới cho 1,03 triệu người, tỉ lệ hộ nghèo giảm nhanh. Chương trình xây dựng nông thôn mới hoàn thành 1.200 xã, gần bằng bình quân chung của cả nước. Các chỉ tiêu về môi trường như tỉ lệ sở hữu chất thải rắn cơ bản đạt được mục tiêu đề ra theo Quyết định 114 của Chính phủ. Các tổ chức nghề cá như nghiệp đoàn được tổ chức nhân rộng gắn kết.
Theo Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, kết quả trên có được nhờ sự chỉ đạo của Chính phủ và các cơ quan ban ngành. Nhưng bên cạnh thành tựu đã đạt được, vùng miền Trung đang đối mặt với những điểm nghẽn đang cản trở sự phát triển của Vùng kinh tế miền Trung.
Theo đó, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng chỉ ra, thứ nhất là quy mô kinh tế vùng còn khiêm tốn, động lực tăng trưởng của vùng còn yếu. Trong 14 tỉnh, chỉ có 4 tỉnh là Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Quảng Ngãi và Quảng Nam có dự án động lực quy mô lớn. Các tỉnh còn lại tốc độ tăng trưởng còn thấp, chưa khai thác được thế mạnh về hệ thống cảng biển, sân bay sẵn có. Một số hành lang kinh tế (Đà Nẵng - Quốc lộ 1A và hành lang Đà Nẵng - Quốc lộ 14B - 14D - Nam Giang - Đông-Tây; Dung Quất - Tây Nguyên; Quy Nhơn - Tây Nguyên) chưa phát huy sức hút lớn về công nghiệp, dịch vụ; xuất khẩu tăng cao nhưng tỷ trọng còn thấp trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước (chỉ chiếm 4,76% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước). Phát triển chưa đồng đều xét trên yếu tố vùng, lãnh thổ giữa các tỉnh trong vùng và nội bộ từng địa phương, ảnh hưởng tới khả năng phát triển vùng một cách đồng bộ, toàn diện.
Thứ hai là Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung gồm 5 tỉnh Thừa Thiên-Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định chưa thể hiện được vai trò là hạt nhân tăng trưởng, đầu tầu dẫn dắt kinh tế vùng. Tỉ trọng GRDP của vùng kinh tế trọng điểm so với GDP cả nước trong giai đoạn 2016-2018 có xu hướng giảm, năm 2016 chiếm 7,89%, năm 2017 là 7,79%, đến năm 2018 chiếm 7,84%. Tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân hàng năm thời kỳ 2016-2018 là 7,3%/năm (đứng thứ 3 trong 6 vùng kinh tế của cả nước) thấp hơn bình quân vùng miền Trung (7,62%). Tốc độ tăng trưởng 6 tháng đầu năm 2019 của 4/5 địa phương thuộc Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung tăng trưởng thấp hơn bình quân chung của vùng và cả nước.
Thứ ba là thu ngân sách chưa bền vững, mặc dù, tăng cao nhưng số thu một lần, thu không ổn định còn chiếm tỉ lệ lớn, thu từ tiền sử dụng đất, xổ số kiến thiết chiếm tỉ lệ cao trong tổng số thu nội địa, khoảng 22-25%.
Điểm nghẽn thứ tư được Bộ trưởng chỉ ra là hạ tầng giao thông kết nối liên vùng, nội vùng còn yếu và thiếu. Tuyến đường ven biển còn chưa kết nối được các tỉnh và vùng theo dải bờ biển miền Trung, các tuyến đường trục Bắc - Nam, Đông - Tây đường nối từ khu vực ven biển lên Tây Nguyên, nối ven biển với vùng trung du, miền núi chưa được đầu tư mới, nâng cấp; tuyến đường sắt khổ 1,4 m chậm được đầu tư.
Thứ năm là nguy cơ thiếu nước ngọt, nhiễm mặn và hạn hán ngày càng rõ rệt, đặc biệt tại các tỉnh Nam Trung bộ. Tình trạng ô nhiễm môi trường tại các khu kinh tế, khu công nghiệp, cơ sở sản xuất công nghiệp còn cao.
Điểm nghẽn thứ sáu là thu hút đầu tư nước ngoài vào vùng còn thấp, chủ yếu dự án vừa và nhỏ. Các nhà đầu tư nước ngoài, tập đoàn, doanh nghiệp lớn có tâm lý e ngại khi đầu tư vào vùng thường gặp thiên tai, bão lũ và giao thông chưa thật sự thuận tiện.
Thứ bảy là chất lượng nguồn nhân lực còn thấp, tỉ lệ lao động qua đào tạo có cấp chứng chỉ mới đạt khoảng 22-23%, thuộc vùng có tỉ lệ thấp của cả nước. Do đặc điểm là vùng thuần nông nghiệp và ngư nghiệp nên phong cách làm việc công nghiệp, kỷ luật và tính chuyên nghiệp chưa cao, lực lượng lao động cần có sự đào tạo để dần thay đổi thói quen, tác phong làm việc. Tỉ lệ hộ nghèo vẫn còn cao (8,7%) so với bình quân cả nước (6,8%).
Điểm nghẽn cuối cùng được Bộ trưởng Dũng chỉ ra là thiếu sự liên kết vùng. Theo đó, vẫn còn tình trạng mạnh ai nấy làm, thậm chí cạnh tranh lẫn nhau; công tác phối hợp giữa các địa phương trong vùng còn rất hạn chế; chưa hình thành được sự kết nối về chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, kết cấu hạ tầng, cơ chế, chính sách, nguồn nhân lực dẫn đến làm chậm tiến trình hình thành một không gian kinh tế thống nhất; đồng thời, chưa có sự phân công lao động giữa các tỉnh, thành phố trong vùng, dẫn tới đầu tư còn trùng lắp, các tỉnh, thành phố không phát huy được lợi thế so sánh của mình.
Từ những thách thức trên, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng đề xuất một số giải pháp giúp tăng cường phát triển kinh tế miền Trung. Đó là thực hiện quy hoạch xã hội phát triển vùng miền Trung đã được phát triển, tiếp tục phê duyệt, khai thác tiềm năng, lợi thế phát triển thành vùng kinh tế mạnh của cả nước; đẩy nhanh tiến độ quy hoạch vùng theo tiến độ mới được thông qua, lấy biển và vùng ven biển làm trung tâm; hoàn thiện hệ thống giao thông kết nối Bắc Nam, cảng biển ven biển và Trung Tây Nguyên; đảm bảo gắn kết biển, tăng cường liên kết vùng và liên kết với miền Trung - Tây Nguyên, tiếp tục thực hiện Nghị quyết 67 của Chính phủ, đào tạo thu hút tạo việc làm.
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng nhấn mạnh đến yêu cầu đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế của vùng, xây dựng thương hiệu và sản xuất quốc gia theo ngành và vùng. Cùng đó là phát triển kết cấu hạ tầng liên vùng và vùng, kết nối trung tâm kinh tế lớn của cả nước. Kết nối chiến lược Bắc Nam Đông Tây, kết nối đường cao tốc trong vùng, sớm đầu tư đường sắt Bắc-Nam.
Trong quản lý điều hành, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nêu hướng tiếp tục kiện toàn bộ máy và trao thực quyền quyết định cho từng vùng.
Để phát triển bền vững, ông Dũng nhấn mạnh đến yêu cầu phát triển kinh tế đi đôi với phát triển toàn diện an sinh, phúc lợi xã hội và bảo vệ môi trường, vùng ven biển đảo, giảm thiểu suy thoái môi trường, xử lý tốt chất thải rắn; kết hợp chặt chẽ kinh tế với phát triển quốc phòng an ninh.