DNNVV Việt: Cả DN FDI và DN tư nhân lớn đều không chơi cùng
Chuyên gia Phạm Chi Lan cho rằng, không chỉ là khu vực FDI không chơi với DN(DN) tư nhân mà ngay cả các DN trong nước, DN lớn cũng không chơi với các DNNVV.
Không thể lớn, không dám nghĩ lớn
Tờ saigondautu.com.vn đăng tải đánh giá của chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan về khó khăn mà DNTN, đặc biệt là DNNVV Việt Nam đang gặp phải.
Theo đó, DNTN quy mô lớn đã xuất hiện và tăng khá nhanh trong hơn thập niên qua, nhất là khi thị trường đất đai bùng nổ sau khi nước ta gia nhập WTO. DNTN thường có năng suất lao động cao hơn DNNN, nhưng ở nước ta khu vực DNTN có năng suất thấp nhất và thua xa DNNN và DN FDI.
Hầu hết DNTN Việt quy mô lớn nổi lên từ tập trung đầu tư, kinh doanh bất động sản và tích tụ tài sản từ đất, nhờ sử dụng mối quan hệ thân hữu với một số cá nhân và cơ quan nhà nước - nơi có quyền phân bổ đất đai là thứ tài nguyên được hiến định thuộc sở hữu toàn dân và do Nhà nước quản lý.
Vài năm gần đây mới bắt đầu có một số DNTN quy mô lớn chuyển một phần đầu tư sang các lĩnh vực khác đa dạng hơn, như công nghiệp chế tạo, năng lượng, các dịch vụ ngân hàng, thương mại, vận tải, y tế, giáo dục, kể cả một vài lĩnh vực công nghệ cao.
Theo Sách Trắng DN Việt Nam 2019 công bố năm 2020, trong 2 năm 2016 và 2017, tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) của DNTN lần lượt đạt 4,4% và 6%; tỷ suất lợi nhuận trên tài sản (ROA) đạt 1,4% và 1,8%; chỉ số quay vòng vốn, tức tỷ lệ doanh thu trên vốn kinh doanh, đạt 0,71 và 0,73.
Ở nước ta khu vực DNTN có năng suất thấp nhất và thua xa DNNN và DN FDI.
Dù tỷ suất lợi nhuận bình quân tăng lên, nhưng tỷ lệ DNTN bị thua lỗ khá lớn 40-50% trong suốt những năm 2011-2017.
Rủi ro vay nợ cũng là vấn đề lớn của DNTN, với hệ số nợ trên vốn chủ sở hữu lên tới 2,3 lần trong 2 năm 2016 và 2017. Chất lượng và hiệu quả của DN nói chung trên 2 khía cạnh giá trị gia tăng và năng suất lao động cũng thấp và tụt khá xa so với các nước xung quanh.
Sự gia tăng giá trị sản xuất (MVA) và MVA tính theo đầu người ở Việt Nam trong các ngành công nghiệp chế biến chế tạo, kể cả các ngành xuất khẩu, đều thấp. Năm 2016 MVA nước ta đạt 29,28 tỷ USD, bình quân đầu người đạt 310USD, kém xa so với Trung Quốc và các nước ASEAN-6.
Theo Tổng cục Thống kê, năm 2018 khu vực DNTN chỉ đạt mức năng suất 58 triệu đồng/người so với 248 triệu đồng của DN FDI và 339 triệu đồng của DNNN. Điều này chủ yếu do quy mô của DNTN quá nhỏ, đặc biệt với các hộ gia đình chiếm tới 90% khu vực này phần lớn chỉ tham gia các hoạt động giản đơn, như sản xuất các sản phẩm truyền thống, thương mại, dịch vụ cung cấp cho người tiêu dùng tại địa phương.
Quy mô nhỏ, lại thiếu cả nguồn lực lẫn sự liên kết và hỗ trợ, cũng khiến DNTN khó tăng năng suất bằng hiệu quả kinh tế nhờ quy mô, hoặc chuyên môn hóa và ứng dụng công nghệ tiên tiến, thực hiện đổi mới sáng tạo.
So với các nước trong khu vực, năng suất lao động của Việt Nam hiện nay rất thấp. Tính theo sức mua tương đương năm 2011, năng suất lao động Việt Nam năm 2017 đạt 10.232USD, chỉ bằng 7,2% mức năng suất của Singapore, 18,5% của Malaysia, 36,2% của Thái Lan, 43% của Indonesia và 55% của Philippines. Khoảng cách về năng suất lao động giữa Việt Nam với các nước này vẫn tiếp tục gia tăng.
Theo chuyên gia Phạm Chi Lan, sự chênh lệch về nhiều mặt giữa DNTN với các DNNN và FDI có nguyên nhân gốc rễ là môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế chưa thực sự được tạo lập.
Dù Hiến pháp, luật pháp và các nghị quyết của Đảng đều khẳng định sự bình đẳng giữa các DN thuộc mọi thành phần kinh tế, dù môi trường kinh doanh liên tục được cải thiện, nhưng sự phân biệt đối xử và bất bình đẳng giữa tuyệt đại đa số DNTN với DNNN và FDI vẫn kéo dài suốt hơn 30 năm đổi mới, đến nay vẫn nghiêm trọng và phổ biến.
DNNN thuộc khu vực kinh tế đóng vai trò chủ đạo, nên gắn bó trực tiếp với hệ thống nhà nước, nơi có quyền lực tối cao cả trong thiết kế và thi hành luật pháp, chính sách, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, lẫn sở hữu và phân bổ các nguồn lực quan trọng nhất của đất nước.
Tuy có bị gò bó do chịu sự quản lý trực tiếp của nhiều cơ quan nhà nước, song DNNN thường được bảo hộ khỏi sự cạnh tranh của DNTN trong nước và quốc tế, đồng thời được hưởng nhiều đặc quyền trong tiếp cận các nguồn lực và giành thương quyền trong các lĩnh vực và dự án có khả năng sinh lời cao.
Chính vì vậy, không ít DNNN đã trở thành gánh nặng cho nền kinh tế khi làm ăn thua lỗ, nợ nần kéo dài, khiến các nguồn lực họ nắm giữ bị sử dụng kém hiệu quả, làm tăng chi phí và giá cả các sản phẩm họ cung cấp cho xã hội, đồng thời tước đi cơ hội và nguồn lực kinh doanh của các DN khác.
Mặt khác, hiện tượng lợi ích nhóm, DN sân sau, DN thân hữu khá phổ biến những năm gần đây, đã tạo ra môi trường cạnh tranh bất bình đẳng giữa DN thân hữu với DN không có quan hệ thân hữu.
Theo Báo cáo Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) do Phòng Thương mại - Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cùng Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa kỳ (USAID) đưa ra năm 2018, tới 70% DN cho rằng nguồn lực kinh doanh (hợp đồng, đất đai…) chủ yếu rơi vào DN thân quen cán bộ công quyền.
Việc tiếp cận thông tin cũng thiếu công bằng, với 69% DN cho rằng cần phải có mối quan hệ để có thông tin hay tài liệu của tỉnh.
Trong môi trường cạnh tranh bất bình đẳng như vậy, DNTN bị chèn ép nhiều bề nên rất khó có thể lớn lên được. Quyền tiếp cận các nguồn lực, thương quyền và cơ hội kinh doanh của họ bị thu hẹp, thậm chí bị tước đoạt bởi những DN được ưu đãi một cách không sòng phẳng.
Họ phải trả giá cao hơn cho nhiều tài nguyên và sản phẩm do những nhóm lợi ích thao túng thị trường, đặc biệt về đất đai, mặt bằng sản xuất-kinh doanh, chi phí vận tải… làm đội giá thành và giảm lợi nhuận của họ. Biên lợi nhuận quá nhỏ bé và bấp bênh khiến DNTN càng khó có khả năng đầu tư phát triển và ít dám nghĩ đến làm ăn lớn hay lâu dài.
Môi trường đó đã không khuyến khích sự liên kết, hợp tác, thậm chí còn gây chia rẽ, nghi ngờ giữa các DN thuộc các thành phần khác nhau, giữa DN được ưu đãi và DN bị kỳ thị.
Môi trường cạnh tranh không bình đẳng còn là mảnh mất màu mỡ cho tham nhũng, cho cơ chế xin-cho kéo dài, cho sự lãng phí các nguồn lực và mất mát thời cơ phát triển.
Vẫn là chờ kế hoạch thực thi cải thiện môi trường kinh doanh
Tiếp tục phản ánh nhận định của chuyên gia Phạm Chi Lan, tờ TheLeader chỉ rõ DNTN đang đối mặt với 3 vấn đề lớn. Đó là Nam đang rất đơn độc trong phát triển, thiếu sự đồng hành của các hiệp hội doanh nghiệp, cơ quan quản lý nhà nước và ngay cả sự hợp tác giữa chính họ với nhau.
Thứ nhất, hầu hết DNTN đều có quy mô nhỏ, thiếu các nguồn lực cần thiết để phát triển. Năng suất lao động của khu vực tư nhân thấp và khó tăng năng suất, khó cải thiện năng suất lao động.
Khu vực kinh tế tư nhân đang thiếu vắng các DN quy mô lớn và vừa, thiếu sự dẫn dắt của các DN quy mô lớn đối với các DNNVV.
Theo bà Lan, đây là một thực tế đáng buồn của một nền kinh tế, khi mà các khu vực kinh tế "không chơi với nhau". Trong khi đó, lẽ ra các DN phải có mối quan hệ gắn kết chặt chẽ. DN lớn phải là cánh chim đầu đàn, dẫn dắt các DNNVV đi lên, đưa họ vào mạng lưới chuỗi sản xuất cung ứng của mình để cùng nhau phát triển.
Vấn đề thứ hai, theo bà Lan, mục đích của hầu hết DNNVV của Việt Nam đều là mưu sinh, kiếm sống. DN đang rất thiếu niềm tin kinh doanh. Hệ quả là hầu như các DN đều không chịu lớn, rất ít DN phát triển, chuyển được từ siêu nhỏ thành nhỏ, từ nhỏ thành vừa.
Nguyên nhân của thực trạng này được bà Lan chỉ ra rằng, DNTN đang phải cạnh tranh không bình đẳng với các DNFDI, DN nhà nước và thân hữu.
Việt Nam chưa có môi trường cạnh tranh bình đẳng cho các doanh nghiệp. Pháp luật về cải thiện môi trường kinh doanh rất nhiều nhưng công tác thực thi còn yếu, nhiều mục tiêu chưa được thực hiện.
Bên cạnh đó, quyền tài sản về vật chất và trí tuệ của DN chưa đảm bảo, DN khó tiếp cận các nguồn lực của xã hội cho phát triển.
Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan
Mặt khác, một trong những vấn đề quan trọng trong quản lý nhà nước gây khó cho cho DNTN là các cơ chế thực thi pháp luật luôn đẩy DN vào sự phát triển một cách lệch lạc.
"Ví dụ như việc có quá nhiều quy hoạch, mũi nhọn phát triển dẫn đến DN đi lệch. Việc duy trì quan hệ xin cho quá lâu khiến DN luôn tìm hướng đi thân hữu hơn là cạnh tranh lành mạnh", bà Lan nhấn mạnh.
Hiểu đúng để ứng xử đúng với DNTN
Bàn về giải pháp cho DNTN Việt Nam phát triển, bà Lan cho rằng, trước hết, các cơ quan quản lý nhà nước và toàn xã hội cần có một cái nhìn đúng về khu vực kinh tế này.
Thời gian vừa qua, những nhầm lẫn trong khái niệm về DNTN luôn tồn tại. Lúc thì gọi khu vực kinh tế tư nhân là DNTN của người Việt, hình thành theo Luật DN đăng ký chính thức. Lúc thì tính cả các hộ kinh doanh gia đình vào khu vực kinh tế tư nhân. Lúc lại đưa cả các DN đầu tư nước và DN ngoài nhà nước vào thành khu vực tư nhân nói chung.
Chính vì vậy, các con số thống kê đã không phản ảnh được đầy đủ sự đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân đối với tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.
Ví dụ như nếu chỉ tính các DN đăng ký chính thức thì khu vực kinh tế tư nhân chỉ đóng góp 9 - 10% GDP. Tuy nhiên, nếu tính tổng khu vực tư nhân lại đóng góp vào GDP 43%.
Do đó, làm rõ khái niệm kinh tế tư nhân, đánh giá đúng vai trò, đóng góp của khu vực này với tăng trưởng kinh tế là việc rất cần để các chính sách được thiết kế hợp lý, cụ thể đối với từng khu vực, giúp khu vực kinh tế tư nhân phát triển.
Đơn cử như khu vực tư nhân có nhiều nhóm khác nhau, mỗi nhóm đòi hỏi có những chính sách khác nhau để phát triển. Các DN lớn rất cần phát triển lên một giai đoạn mới, đi vào công nghiệp, sáng tạo, phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá.
Trong khi đó, khu vực DN vừa cần các chính sách để phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ, từng bước phát triển trở thành DN lớn. Khu vực DN nhỏ, siêu nhỏ lại cần những chính sách khác hai khu vực trên.
Từ thực tế này, bà Lan cho rằng, nếu Chính phủ đưa ra chính sách phát triển kinh tế tư nhân chung cho tất cả các DN sẽ không đúng, không trúng, nhất là các DN nhỏ chiếm tới hơn 97% trong tổng số các DNTN. Đây thường là khu vực DN bị thua thiệt, nhất là trong công tác phân bổ các nguồn lực.
Về các giải pháp cụ thể, theo vị chuyên gia này, nhà nước cần tạo được một môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng để kinh tế tư nhân là động lực quan trọng của nền kinh tế, thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển, tạo sự liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp, từng bước hội nhập sâu, rộng với quốc tế.
Bên cạnh đó, Chính phủ cần tăng cường thể chế thị trường, đặt các DN vào thế cạnh tranh bình đẳng, xoá bỏ các ưu đãi bất hợp lý cho DN FDI và thân hữu, giải phóng các nguồn lực mà họ chưa sử dụng hiệu quả và phân bổ lại các nguồn lực cho phát triển, xoá bỏ cơ chế xin cho nhằm tạo thuận lợi cho sự phát triển của doanh nghiệp.
Trên lý thuyết là như vậy, tuy nhiên, theo bà Lan: "Bao lâu nay, tư duy đổi mới mới mới chỉ ở trên, chưa thấm hành động trong bộ máy ở phía dưới. Chính sách của Chính phủ luôn rất cụ thể, rõ ràng nhưng quá trình thực hiện cứ tản mạn, mỗi người làm một kiểu, mỗi người đi một hướng, ai cũng đều chạy theo mục tiêu riêng của mình".
Chính điều này đã khiến các chủ trương chính sách chưa được thực hiện có hiệu quả, vẫn mãi gây khó khăn, kìm hãm sự phát triển lớn mạnh của khu vực DNTN.
"Đã đến lúc toàn xã hội phải tập trung vào một mục tiêu cao nhất là phát triển đất nước này. Muốn vậy, tinh thần dân tộc, lòng yêu nước, ý chí công dân trong toàn thể bộ máy nhà nước, DN và xã hội cần được khơi dậy và nâng cao hơn bao giờ hết. Tất cả cùng tập trung trí tuệ, tinh thần ở mức cao nhất, vì một Việt Nam thịnh vượng", bà Lan nhấn mạnh.
Minh Hoa