(DNVN) - Ngày 26/6, tại Hà Nội, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) phối hợp với Bộ Công Thương, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) tổ chức Hội nghị “Cơ hội và thách thức đối với nông nghiệp Việt Nam khi tham gia các Hiệp định thương mại tự do”.
Phát biểu tại Hội nghị, Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh cho biết: Với 16 FTA cả song phương và đa phương đã được ký kết, trong số đó, có nhiều FTA với những đòi hỏi, yêu cầu chuẩn mực rất cao, tác động trực tiếp sâu rộng đến nhiều lĩnh vực, nhiều khía cạnh của quốc gia, quản trị của quốc gia, chính sách phát triển kinh tế, xã hội… Tác động của hội nhập đi vào cuộc sống, không chỉ đi vào Bộ, ngành địa phương mà còn tác động đến từng doanh nghiệp, từng người dân, sản xuất trong nước trong đó có ngành nông nghiệp và nông thôn.
Đáng chú ý, với hội nhập quốc tế, Việt Nam đã chuyển từ bị động sang chủ động. Do đó, đã có những chuyển biến quan trọng cả về cơ cấu phát triển, chất lượng phát triển kinh tế cũng như chiến lược đối ngoại, trong đó, lấy nền tảng là đa phương hóa, đa dạng hóa. “Minh chứng thành công trong hội nhập của Việt Nam có thể lấy ví dụ từ chính ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn, với việc Việt Nam hội nhập sâu rộng, nhất là các thị trường có FTA, nông nghiệp đã vươn lên, chứng kiến sự thay đổi vượt bậc, trong năng lực sản xuất của doanh nghiệp và nông dân từng bước tạo tiền đề quan trọng trong liên kết chuỗi”, Bộ trưởng Trần Tuấn Anh cho hay.
Với vị thế là nước đứng đầu trong các sản phẩm nông sản sản xuất và xuất khẩu như: cà phê đứng thứ 2 thế giới, gạo đứng thứ 3 thế giới, thủy sản đứng thứ tư thế giới, Bộ trưởng Trần Tuấn Anh cho rằng, không có giới hạn cho năng lực sản xuất nếu chúng ta có thể tận dụng tối đa cơ hội về thị trường và có được điều kiện để tái cơ cấu, đưa công nghệ và tổ chức lại sản xuất nông nghiệp theo hướng quy mô lớn, hữu cơ và gắn với việc hình thành phát triển các chuỗi giá trị. Các FTA chính là cơ hội để Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm, đặc biệt là ngành nông nghiệp Việt Nam.
“Trong tất cả các ngành kinh tế lớn của Việt Nam có giá trị xuất khẩu có giá trị trên 1 tỷ USD thì nông nghiệp chiếm một phần lớn. Tuy nhiên, nông nghiệp vẫn gặp nhưng trở ngại về chất lượng, năng lực cạnh tranh, công nghệ chế biến để đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật khi tham gia các FTA. Do đó, chúng ta còn nhiều dư địa để triển khai công tác nghiên cứu, tổ chức lại sản xuất, nâng cao năng lực cạnh tranh”, Bộ trưởng Trần Tuấn Anh nhấn mạnh.
Đặc biệt, trong bối cảnh của thế giới đang diễn biến ngày càng phức tạp, xuất hiện chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch, chủ nghĩa đơn phương và đã trực tiếp đe dọa đến năng lực sản xuất, khả năng lực cạnh tranh và thâm nhập thị trường của sản phẩm hàng hóa của Việt Nam, Bộ trưởng Trần Tuấn Anh cho hay, việc ký kết các FTA trong đó, Hiệp định CPTPP và tới đây EVFTA sẽ ký kết vào 30/6/2019 sẽ là nền tảng cho hội nhập của Việt Nam; giúp Việt Nam khẳng định được thế đứng, vị thế của mình, để chúng ta có thể hội nhập thành công hơn nữa, tạo ra công cụ cho các ngành kinh tế của Việt Nam, trong đó có nông nghiệp tái cơ cấu, đổi mới sản xuất gắn với lợi thế cạnh tranh và thị trường toàn cầu hóa. Cạnh đó, điều kiện thuận lợi nhất không chỉ đến từ cắt giảm thuế quan mà còn có điều kiện thực thi chính sách phát triển tại các thị trường, đảm bảo môi trường bình đẳng, lành mạnh mà các quốc gia tham gia hội nhập cùng cam kết thực hiện. Đồng thời, thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài, nâng cao trình độ công nghệ, năng suất lao động, mô hình sản xuất nông nghiệp.
Tuy nhiên, theo Bộ trưởng Trần Tuấn Anh, trong hội nhập, không phải tất cả đều là bức tranh màu hồng. Cụ thể như: Gia tăng cạnh tranh với hàng nhập khẩu đến từ các nước có lợi thế hơn, trình độ phát triển cao hơn; áp lực cạnh tranh sẽ làm một số ngành có thể bị thu hẹp sản xuất như chăn nuôi lợn, mía đường; nguy cơ nông sản bị trả lại, mất quyền xuất khẩu hoặc gia tăng tần suất kiểm tra do chưa đáp ứng các quy định SPS/TBT tại các thị trường khó tính như Nhật và các nước EU khi sản xuất trong nước chưa được quản lý chặt chẽ vấn đề vệ sinh ATTP;...Rất nhiều áp lực, thách thức đặt ra cho cộng đồng doanh nghiệp và người nông dân và các thành tố trong xã hội.
Do đó, đòi hỏi vai trò của các cơ quan quản lý nhà nước, các bộ, ban ngành trong việc xây dựng chính sách và thực thi pháp luật để đảm bảo hiệu quả cho người dân, cộng đồng doanh nghiệp. Đây là mục tiêu xuyên suốt. Cần hơn thế nữa sự vào cuộc của các địa phương, nhóm ngành hàng để Bộ Công Thương, Bộ NN&PTNT, các bộ, ngành khác có điều kiện tiếp cận để bàn thảo, thảo luận các công việc cần triển khai, trách nhiệm của mỗi bên. Bộ Công Thương sẽ là đầu mối của Chính phủ trong việc kiểm tra đôn đốc thực hiện các FTA, với tinh thần tương tác 2 chiều, lắng nghe nhiều chiều cả tích cực, tồn tại bất cập, từ đó có giải pháp kịp thời, hiệu quả.
Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Nguyễn Xuân Cường cho biết: Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA) chiếm hơn 30% GDP toàn cầu, tổng giao dịch thương mại khoảng 35% thương mại toàn cầu, hết sức lớn. Đây là cơ hội nhưng ngược lại cũng rất nhiều thách thức và rủi ro mà không nỗ lực thì chúng ta sẽ đánh mất cơ hội và mất ngay thị trường sân nhà Việt Nam.
Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường nêu rõ: Cần nhận diện thật rõ hội nhập, tổ chức lại chuỗi ở tất cả các khu vực. Hoàn thiện thể chế, chuyển đổi phương thức, hệ thống kinh tế, liên kết chất lượng sản phẩm. Các FTA, điển hình như CPTPP, EVFTA đem đến cơ hội mở rộng thị trường cho xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp có thế mạnh của Việt Nam hiện nay như: Thủy sản, lâm sản, đồ gỗ, rau quả, trái cây và các nông sản khác (gạo, cà phê, caosu...). Tuy nhiên, cũng sẽ có những thách thức lớn đối với xuất khẩu nông sản Việt Nam, đó là: Các nước tham gia có thể giảm thuế suất nhưng lại nâng cao các hàng rào phi thuế quan và kiểm soát nghiêm ngặt hơn; sản phẩm chăn nuôi sẽ bị cạnh tranh gay gắt hơn. Các doanh nghiệp phải đáp ứng các tiêu chuẩn cao về chất lượng, an toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường, tiết kiệm năng lượng, an sinh xã hội...
Do đó, vị tư lệnh ngành nông nghiệp cũng nhấn mạnh: “Để tận dụng được các lợi thế, cơ hội và khắc phục những khó khăn nêu trên, ngành nông nghiệp và các doanh nghiệp cần chủ động tìm hiểu thông tin về CPTPP và EVFTA để nắm vững cam kết của Việt Nam và các thị trường đối tác quan tâm, đặc biệt là các thông tin về các ưu đãi thuế quan, các yêu cầu về chất lượng, quy tắc xuất xứ hàng hóa…”.
Đối với việc đối phó với các vấn đề kiện tụng quốc tế trong quá trình tham gia hội nhập, Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường cho rằng cần đào tạo nguồn nhân lực về tư pháp để phản biện lại những cáo buộc bất hợp lí.