Giảm số lượng DNNN song hành cùng đầu tư và tái đầu tư

11:28 | 15/02/2021 Doanh Nhân Việt Nam trên Doanh Nhân Việt Nam trên
Chia sẻ
Giảm số lượng DNNN song hành cùng đầu tư và tái đầu tư là giải pháp mà Ủy ban Quản lý vốn nhà nước chú trọng nhằm cải cách doanh nghiệp nhà nước.
Trong ngày đầu xuân 2021, trao đổi với VietnamFinance, ông Nguyễn Hoàng Anh, Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại DN nhấn mạnh: Cải cách DNNN cần phải linh hoạt theo hướng có thu hẹp và cũng có đầu tư mới, mở rộng để có được chỉ số hiệu quả theo cơ chế thị trường.
 
"Trong dịp Quốc khánh 2/9/2020 và chuẩn bị đại hội các đảng bộ trực thuộc Trung ương tiến tới Đại hội XIII của Đảng, đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, Trưởng Tiểu ban Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã có bài viết quan trọng “Chuẩn bị và tiến hành thật tốt Đại hội XIII của Đảng, đưa đất nước bước vào một giai đoạn phát triển mới”.
 
Trong bài viết, đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước nhấn mạnh 2 vấn đề liên quan đến DNNN: Một là, phải đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của khu vực kinh tế nhà nước và DNNN; hai là, kinh tế nhà nước, nhất là DNNN hoạt động còn đang gặp không ít khó khăn, ách tắc.
 
Đây là vấn đề đã được đặt ra nhiều năm, nhất là trong những nhiệm kỳ gần đây. Việc nhấn mạnh những vấn đề này của đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước trong bối cảnh hiện nay có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nâng cao hiệu quả DNNN nghĩa là DN phải có lãi, quy mô vốn phải tăng lên, thị phần phải được giữ vững và phát triển, nhất là phải giữ được vị trí tại thị trường trong nước, tiếp cận và mở rộng thị trường nước ngoài.
 
Giảm số lượng DNNN song hành cùng đầu tư và tái đầu tư - ảnh 1
 Nhà nước chủ trương rút vốn nhà nước và các DNNN ra khỏi những ngành, lĩnh vực mà khu vực tư nhân có khả năng cung cấp sản phẩm dịch vụ tốt hơn
 
Về khó khăn, ách tắc: có nhiều ý kiến nêu rằng, DNNN có nhiều lợi thế chưa được khai thác, điều này là đúng và đấy chính là biểu hiện của khó khăn, ách tắc. Những khó khăn, ách tắc này đã được nhận diện khá rõ, đó là thể chế, cơ chế đang làm DNNN tốn nhiều thời gian, nguồn lực để theo đuổi.
 
Để thực hiện chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nhằm nâng cao hiệu quả và tháo gỡ những khó khăn, ách tắc của DNNN, chúng ta cần cụ thể hóa và giải quyết tốt những vấn đề sau:
 
Vấn đề thứ nhất, về nâng cao hiệu quả DNNN. Sự tồn tại các DNNN là thực tế khách quan ở mọi quốc gia, kể cả các nền kinh tế thị trường phát triển, điểm khác nhau chỉ là ở mức độ về quy mô và lĩnh vực hoạt động. Ở Việt Nam, Nhà nước chủ trương rút vốn nhà nước và các DNNN ra khỏi những ngành, lĩnh vực mà khu vực tư nhân có khả năng cung cấp sản phẩm dịch vụ tốt hơn, hiệu quả hơn, cạnh tranh hơn.
 
Nghĩa là, chỗ nào hiệu quả hơn thì để tư nhân làm, như vậy, DNNN chủ yếu sẽ chỉ còn trong các ngành, lĩnh vực có hiệu quả thấp hơn. Theo xu hướng này, số lượng DNNN sẽ tiếp tục giảm, chỉ hoạt động trong một số ngành lĩnh vực cần được Nhà nước duy trì đầu tư vốn.
 
Nhưng tổng giá trị vốn nhà nước tại các DN vẫn còn rất lớn, tập trung vào hầu hết các tập đoàn, tổng công ty quan trọng, đang chiếm trên 80% tài sản và vốn chủ sở hữu của khu vực DNNN. Riêng 6 tập đoàn (không tính Tập đoàn Viettel thuộc Bộ Quốc phòng) đã có tổng giá trị tài sản hơn 1,4 triệu tỷ đồng.
 
Như vậy, “bài toán” đặt ra là, với tổng số vốn nhà nước tại DN còn rất lớn, nhưng DN lại chỉ hoạt động trong những ngành lĩnh vực cần được Nhà nước duy trì đầu tư vốn, có hiệu quả thấp hơn, thì làm sao để tiếp tục bảo toàn được vốn và phát triển lâu dài. Đây là một thách thức rất lớn.
 
Hiệu suất sinh lời trên tài sản (ROA) của khu vực DNNN năm 2017 là 2,2%, thấp hơn đáng kể so với mức trung bình 2,9% của toàn bộ khu vực DN, thua xa so với mức 7% của khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Hiệu suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE) của khu vực DNNN là 11,4%, tuy cao hơn mức 10% ROE bình quân các DN, song thấp hơn so với mức 18,1% của khu vực FDI.
 
Để giải “bài toán” có tính xung đột này, chúng ta cần tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại, rà soát, phân loại để sắp xếp DNNN, tập trung hơn vào các lĩnh vực then chốt, thiết yếu; những địa bàn quan trọng và quốc phòng, an ninh; những lĩnh vực mà DN thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư. Đồng thời, xem xét, tạo điều kiện phát triển đối với những hoạt động sản xuất, kinh doanh có hiệu quả cao trên nền lợi thế “sẵn có”, theo điều kiện cụ thể của từng tập đoàn, tổng công ty.
 
Ông Nguyễn Hoàng Anh đưa ra ví dụ: Những năm gần đây, Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam, đều có lãi trung bình khoảng 3.000 tỷ đến 4.000 tỷ mỗi năm. Tuy nhiên, tỷ suất lợi nhuận chỉ ở mức 7,5% đến 10%, dưới mức trung bình của khu vực DNNN (11,4%), thấp xa so với khu vực FDI (18,1%). Với năng suất khai thác mủ cao su của Tập đoàn đạt cao nhất nhì khu vực châu Á, có thể nói rằng hiệu quả của Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam với lĩnh vực chính là nông nghiệp đã đến giới hạn.
 
Vì vậy, nên hỗ trợ và thúc đẩy để tập đoàn đầu tư lĩnh vực khu công nghiệp. Thủ tướng Chính phủ xem xét và quan trọng là các địa phương tạo điều kiện cho Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam được đầu tư khu công nghiệp trên diện tích đất cao-su của Tập đoàn theo quy hoạch sử dụng đất của địa phương.
 
Tập đoàn Hóa chất Việt Nam cũng ở vào tình trạng tương tự. Hiện nay, 70% nguồn lực vốn của Tập đoàn đầu tư vào sản xuất phân bón, nhưng không đem lại lợi nhuận cho tập đoàn, thậm chí còn bị thâm hụt vốn do chi phí vay đầu tư quá lớn. Sản xuất, kinh doanh phân bón có hiệu quả rất thấp do nhiều nguyên nhân, trong đó có quy định tại Luật số 71/2014/QH13 “Sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật về thuế”, đã áp mặt hàng phân bón thuộc diện không chịu thuế giá trị gia tăng, dẫn đến các DN của tập đoàn không được hoàn thuế, trong khi nếu quy định thuế suất bằng 0%, thì tập đoàn sẽ được hoàn thuế như các DN đang nhập khẩu phân bón hiện nay.
 
Trong khi đó, 30% nguồn lực còn lại của tập đoàn mới đem lại nguồn thu nhập chính, khoảng trên dưới 500 tỷ/năm. Nguồn thu nhập này đến từ các lĩnh vực sản xuất hóa chất cơ bản, chất tẩy rửa, pin ắc-quy, lốp ô-tô,... là những lĩnh vực, mà theo quy định phải thoái vốn dưới mức Nhà nước chi phối (nghĩa là Nhà nước có thể bán hết vốn).
 
Với xu hướng như trên, chỉ trong khoảng từ 2 - 3 năm nữa, Tập đoàn Hóa chất Việt Nam sẽ không còn nguồn lợi tức, hoạt động của tập đoàn chỉ còn mang tính duy trì, yếu dần, trong khi các DN khác thì đang lớn lên.
 
Với 2 ví dụ trên, đặt ra quan điểm cải cách DNNN phải linh hoạt theo hướng có thu hẹp và cũng có đầu tư mới, mở rộng để có được chỉ số hiệu quả theo cơ chế thị trường. Việc “mới” và “mở rộng” này chỉ trên nền lợi thế “sẵn có” của DN, thậm chí cho phép đầu tư cả dự án đô thị nếu đất đó đang thuộc quyền sử dụng của DNNN, thì mới giữ được lợi ích cho Nhà nước.
 
Vấn đề thứ hai, về tháo gỡ khó khăn, ách tắc cho DNNN, cụ thể là thể chế. Với việc thành lập Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại DN, đến nay dần cho thấy rõ 2 nhóm thể chế đang gây vướng mắc: một là, nhóm thể chế quản lý nhà nước đối với DN và ngành, nghề hoạt động của DN; và hai là, nhóm thể chế thực hiện quyền chủ sở hữu vốn nhà nước tại DN.
 
Đối với nhóm thể chế quản lý nhà nước, ách tắc điển hình hiện nay là các quy định về đầu tư. Nếu xem xét từng luật liên quan đến đầu tư thì đều có nội dung hợp lý, lô-gíc, như Luật Đầu tư, Luật Xây dựng, Luật Đầu tư công; kể cả các luật liên quan như Luật Đất đai, Luật Lâm nghiệp (liên quan đất rừng), Luật Bảo vệ môi trường... Nhưng trong thực tế, DN phải thực hiện đồng thời các luật, dẫn đến khối lượng thủ tục tăng lên nhiều; nhiều thủ tục có nội dung trùng lặp, không rõ thứ tự trước sau; thậm chí có quy định khác nhau, vênh nhau.
 
Khoảng từ năm 2015, 2016 trở lại đây, các dự án đầu tư lớn chủ yếu vẫn đang trong quá trình làm thủ tục. Trong đó có dự án đường dây 500kV Vân Phong - Vĩnh Tân đi qua 4 tỉnh, đã chuẩn bị qua 3 năm rồi, nhưng giờ bị chậm lại do phải làm thêm thủ tục sử dụng đất rừng để bảo đảm đúng Luật Lâm nghiệp có hiệu lực từ năm 2019.
 
Việc có các quy định quản lý nhà nước là cần thiết, tạo khung khổ hoạt động chung. Tuy nhiên, cần đồng bộ hóa các quy định tại các luật với nhau, thống nhất thành một quy trình xuyên suốt, mới tạo thuận lợi cho các DN dễ dàng tuân thủ và tiết kiệm thời gian, chi phí.
 
Những ách tắc nêu trên đã tồn tại nhiều năm. Đồng ý những đề xuất của Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại DN, Chính phủ thông qua Nghị quyết số 75/NQ-CP, ngày 21-5-2020, “Về việc xử lý vướng mắc đối với một số dự án đầu tư của các DN do Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại DN làm đại diện chủ sở hữu”. Sau đó, được Quốc hội chấp thuận luật hóa trong Luật Đầu tư, Luật Xây dựng và Luật Đầu tư công sửa đổi vừa qua. Tuy nhiên, cũng chưa xử lý triệt để được hết các ách tắc hiện nay.
 
Nghiên cứu thành lập cơ quan đầu tư vốn nhà nước vào DN
 
Đây là một trong những đề xuất được Bí thư Đảng ủy Khối DN trung ương (DNTƯ) Y Thanh Hà Niê Kđăm nêu trong tham luận với chủ đề "Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa", trình bày sáng 28/1 tại Đại hội XIII.
 
 
Giảm số lượng DNNN song hành cùng đầu tư và tái đầu tư - ảnh 2
 Kiện toàn và nâng cao hiệu quả hoạt động của Ủy ban quản lý vốn nhà nước tại DN
 
Cụ thể là, nâng cao vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng đối với DNNN trong thời gian tới. Nghiên cứu hoàn thiện mô hình tổ chức đảng, mô hình các tổ chức chính trị - xã hội trong DN.
 
Sớm xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế pháp luật, tạo khuôn khổ và hành lang pháp luật đầy đủ, đồng bộ, thống nhất để cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả DNNN. Nghiên cứu, rà soát sửa đổi cơ chế quản lý, giám sát và thực hiện quyền, trách nhiệm của cơ quan và người đại diện sở hữu nhà nước, hoàn thiện mô hình quản lý, giám sát DNNN và vốn, tài sản của nhà nước đầu tư vào DN một cách rõ ràng hơn, phù hợp với bối cảnh tình hình hiện nay. Rà soát, xây dựng cơ chế, chính sách hoặc các quy định cụ thể để tách bạch việc thực hiện sản xuất, kinh doanh của DNNN với các hoạt động sản xuất, cung ứng hàng hóa, dịch vụ công ích Nhà nước đặt hàng cho DN. Trên cơ sở đó thực hiện việc giám sát và đánh giá DN trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh theo đúng chuẩn mực quốc tế và bảo đảm hoạt động kinh doanh của DNNN bình đẳng như các DN khác.
 
Rà soát và hoàn thiện bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động của DNNN, người đại diện phần vốn nhà nước tại DN, người quản lý DN. Tăng cường minh bạch thông tin đối với tất cả các DNNN theo các tiêu chuẩn áp dụng đối với các công ty đại chúng; nghiên cứu xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về DNNN; có chế tài xử lý nhằm bảo đảm tính hiệu quả trong việc phối hợp quản lý, sắp xếp DN giữa các bộ, ngành, địa phương. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm toán kịp thời.
 
Kiện toàn và nâng cao hiệu quả hoạt động của Ủy ban quản lý vốn nhà nước tại DN, có các cơ chế đặc thù để Ủy ban thực sự hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
 
Nghiên cứu việc thành lập cơ quan thực hiện chức năng đầu tư vốn của Nhà nước vào các DNNN vì việc thực hiện đầu tư và tái đầu tư vào các DNNN sẽ đáp ứng nhu cầu phát triển của DN, phù hợp kinh nghiệm quốc tế và các quy định của pháp luật.
 
Trong các văn kiện Đại hội XIII của Đảng, quan điểm về DNNN được nêu là "Tiếp tục thực hiện sắp xếp lại DNNN, tập trung giữ vững những lĩnh vực then chốt, thiết yếu; những địa bàn quan trọng về quốc phòng, an ninh; những lĩnh vực mà DN thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư. Củng cố, phát triển một số tập đoàn kinh tế nhà nước có quy mô lớn, hoạt động hiệu quả, có khả năng cạnh tranh khu vực và quốc tế trong một số ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế… Nâng cao hiệu quả của DNNN sau cổ phần hoá. Hình thành đội ngũ quản lý DNNN chuyên nghiệp, có trình độ cao".
 
Minh Hoa