Phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam dưới tác động của việc cải thiện môi trường pháp lý(*)
Tích cực tạo lập hành lang pháp lý cho kinh tế tư nhân
Kinh tế tư nhân (bao gồm kinh tế cá thể, kinh tế tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân) là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Việc thừa nhận sự tồn tại và phát triển của kinh tế tư nhân trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là bước phát triển dài trong tư duy kinh tế của Đảng.
Đến Đại hội lần thứ VI (năm 1986), Đảng Cộng sản Việt Nam mới chính thức thừa nhận sự tồn tại của kinh tế tư nhân. Song, nếu nhìn rộng ra và bao quát hơn, ngay từ năm 1951, Đảng ta coi kinh tế tư nhân như một bộ phận của nền kinh tế, là lực lượng cần thiết cho xây dựng kinh tế nước nhà(1). Bước vào giai đoạn cải tạo xã hội chủ nghĩa (từ năm 1958), Đảng, Nhà nước Việt Nam lại nỗ lực biến nền kinh tế nhiều thành phần thành nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, gồm hai hình thức sở hữu chủ yếu là quốc doanh và tập thể; kinh tế cá thể và tư bản tư doanh là đối tượng trực tiếp được “cải tạo”. Trong giai đoạn 1960 - 1975, kinh tế tư nhân vẫn hiện diện trong nền kinh tế dưới hình thức kinh tế cá thể, tuy nhiên, do không được thực sự thừa nhận, các doanh nghiệp tư nhân chủ yếu giới hạn trong khu vực hộ kinh doanh, thường không có tư cách pháp nhân và hoạt động chủ yếu ở “thị trường ngầm”.
Với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, Đại hội VI (năm 1986) phê phán và chỉ ra rằng “chưa thực sự thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần”(2); do đó, đã nôn nóng, chủ quan, duy ý chí khi muốn “xóa bỏ ngay các thành phần phi xã hội chủ nghĩa, nhanh chóng biến kinh tế tư bản tư nhân thành quốc doanh”(3). Trên cơ sở “coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ”(4), Đại hội VI khẳng định: “Bằng những biện pháp thích hợp, sử dụng mọi khả năng của các thành phần kinh tế khác trong sự liên kết chặt chẽ và dưới sự chỉ đạo của thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa”(5). Với quan điểm này, các thành phần kinh tế “phi xã hội chủ nghĩa” được tồn tại và hoạt động dưới sự dẫn dắt của thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Từ năm 1986 đến năm 1998, tư duy, nhận thức của Đảng về kinh tế tư nhân có bước phát triển đáng kể, song chính sách và luật pháp liên quan đến khu vực kinh tế này vẫn còn nhiều bất cập. Đáp ứng yêu cầu đó, Luật Doanh nghiệp ra đời năm 1999 xóa bỏ sự phân biệt đối xử về mặt luật pháp đối với doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam, thay thế cho hàng loạt luật đã từng tồn tại trước đó bằng những nội dung tập trung hơn, đầy đủ hơn.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện Luật Doanh nghiệp năm 1999, hàng loạt văn bản hướng dẫn và hỗ trợ được ban hành, xoay quanh các vấn đề: nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp, bãi bỏ một số giấy phép kinh doanh, xử phạt hành chính trong đăng ký kinh doanh, hướng dẫn thi hành một số điều Luật Doanh nghiệp... Những văn bản pháp quy đó góp phần hình thành nên môi trường pháp lý tương đối thông thoáng cho kinh tế tư nhân phát triển.
Đại hội IX (năm 2001) của Đảng tiếp tục có những nhận thức mới, đầy đủ hơn khi khẳng định: “Thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh”(6). Đặc biệt, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa IX về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích, tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân, xác định “kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân”.
Năm 2005, Luật Doanh nghiệp được Quốc hội thông qua, có những bước tiến đáng kể so với Luật Doanh nghiệp năm 1999. Luật Doanh nghiệp năm 2005 quy định về việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân thuộc mọi thành phần kinh tế; quy định về nhóm công ty với đối tượng áp dụng là các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế; các tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của các doanh nghiệp. Luật Doanh nghiệp năm 2005 đưa ra khung khổ pháp luật thống nhất về doanh nghiệp; chấm dứt phân biệt đối xử đối với các doanh nghiệp theo thành phần kinh tế; góp phần thiết lập môi trường kinh doanh bình đẳng, công bằng.
Trên nền tảng một bức tranh kinh tế - xã hội khá ấn tượng và sáng sủa - kết quả của 20 năm đổi mới (1986 - 2006), Đại hội X của Đảng (năm 2006) có bước đột phá mới trong nhận thức về kinh tế tư nhân: “Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế”(7). Đây là lần đầu tiên kinh tế tư nhân được xác định chính thức với tư cách là một thành phần kinh tế, được khuyến khích phát triển; đồng thời, chấp thuận cho đảng viên được làm kinh tế tư nhân, nhằm phát huy mọi tiềm năng con người của xã hội, tạo động lực thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển.
Đại hội XI (năm 2011) của Đảng tiếp tục xác định phải hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển mạnh kinh tế tư nhân. Đặc biệt, Đại hội XII (năm 2016) của Đảng khẳng định mạnh mẽ, dứt khoát hơn khi coi kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; nhấn mạnh yêu cầu cấp bách “hoàn thiện chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp. Khuyến khích hình thành các tập đoàn kinh tế tư nhân đa sở hữu và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước”(8). Đại hội XII đã mở ra những cơ hội mới để thành phần kinh tế này tiếp tục khởi sắc.
Thể chế hóa các quan điểm, chủ trương nói trên, Nhà nước đã ban hành các bộ luật và văn bản hướng dẫn. Cụ thể là: Luật Thuế tài nguyên năm 2009, Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi 2009, Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010, Luật Các tổ chức tín dụng 2010, Luật Trọng tài thương mại 2010... Đặc biệt, Luật Doanh nghiệp năm 2014 và Luật Đầu tư năm 2014 là những xung lực quan trọng tác động tích cực đến sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân. Luật Doanh nghiệp 2014 có nhiều nội dung đổi mới đáng kể, nhất là đối với kinh tế tư nhân trên tinh thần tạo điều kiện phát triển tự do kinh doanh, tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, phù hợp với xu hướng hội nhập chung của thế giới, tạo lộ trình thông thoáng thúc đẩy nhiều doanh nghiệp được thành lập mới. Luật Doanh nghiệp 2014 rút ngắn thời gian đăng ký thành lập doanh nghiệp, cải cách thủ tục hành chính, cải cách con dấu, bảo vệ tốt lợi ích của nhà đầu tư, dễ dàng trong tái cơ cấu doanh nghiệp... Một trong những tháo gỡ quan trọng của Luật Doanh nghiệp 2014 là đã mạnh dạn bỏ nội dung ngành, nghề kinh doanh; bỏ việc xác định vốn pháp định và chứng chỉ hành nghề - bước đi đột phá này đã hiện thực hóa quyền tự do kinh doanh tất cả các ngành, nghề mà pháp luật không cấm theo quy định tại Hiến pháp 2013. Nói cách khác, Luật Doanh nghiệp 2014 đã mang lại công bằng và cơ hội kinh doanh cho các ngành nghề khác nhau, giảm đáng kể rủi ro thương mại và pháp lý, giảm chi phí giao dịch, tăng độ an toàn và tính chủ động, sáng tạo cho doanh nghiệp trong kinh doanh; tạo thuận lợi cho doanh nghiệp tận dụng hết tiềm năng và cơ hội kinh doanh để phát triển...
Ngày 03-6-2017, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa XII về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được ban hành, với mục tiêu tổng quát: phát triển kinh tế tư nhân lành mạnh, hiệu quả, bền vững, thực sự trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết đề ra các mục tiêu cụ thể về chỉ số phát triển kinh tế tư nhân; đưa ra các nhóm giải pháp chủ yếu như: thống nhất nhận thức, tư tưởng, hành động trong triển khai các chủ trương, chính sách về phát triển kinh tế tư nhân; tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi cho phát triển kinh tế tư nhân; hỗ trợ kinh tế tư nhân đổi mới sáng tạo, hiện đại hóa công nghệ và phát triển nguồn nhân lực, nâng cao năng suất lao động; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước; đổi mới nội dung, phương thức và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp đối với kinh tế tư nhân...
Như vậy, nếu như trước năm 1986, kinh tế tư nhân tồn tại nhưng không được thừa nhận, thì từ sau năm 1986, thành phần kinh tế này được công khai thừa nhận, có được những hành lang pháp lý để phát triển.
Kinh tế tư nhân phát triển mạnh, nhưng còn nhiều bất cập
Với những đổi mới, điều chỉnh chủ trương, chính sách, kinh tế tư nhân Việt Nam phát triển mạnh mẽ về số lượng, đa dạng về loại hình sở hữu, loại hình doanh nghiệp, từ doanh nghiệp ngoài quốc doanh tới các hộ kinh doanh cá thể.
Số lượng doanh nghiệp thành lập mới và số vốn đăng ký có xu hướng tăng trong giai đoạn 2011 - 2017: So sánh giữa năm 2017 và năm 2011, số lượng doanh nghiệp thành lập mới tăng 1,6 lần, số vốn đăng ký tăng 2,5 lần, tỷ trọng vốn đăng ký bình quân của doanh nghiệp tăng 1,5 lần(9). Như vậy, 2017 là năm số doanh nghiệp thành lập mới và số vốn đăng ký đạt kỷ lục, cao nhất từ trước đến nay.
Xét theo quy mô lao động, tại thời điểm ngày 01-01-2017 cả nước có hơn 10.000 doanh nghiệp lớn (tăng 29% so với năm 2012), nhưng quy mô chỉ chiếm 1,9% tổng số doanh nghiệp, giảm so với 2,3% của năm 2012. Doanh nghiệp vừa tăng 23,6%, doanh nghiệp nhỏ tăng 21,2% và doanh nghiệp siêu nhỏ tăng tới 65,5% và chiếm 74% tổng số doanh nghiệp(10).
Cho đến cuối năm 2017, kinh tế tư nhân liên tục duy trì tốc độ tăng trưởng khá, chiếm tỷ trọng 39% - 40% GDP; thu hút khoảng 85% lực lượng lao động của nền kinh tế, góp phần quan trọng trong huy động các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển sản xuất - kinh doanh, tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng thu ngân sách nhà nước, tạo việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội.
Kinh tế tư nhân đã xác lập lại cơ cấu đầu tư theo từng thời kỳ phát triển, nâng cao tỷ trọng của các ngành công nghiệp và dịch vụ trong cơ cấu tổng thể nền kinh tế quốc dân; góp phần khơi dậy tiềm năng quan trọng của đất nước, tăng cường nguồn nội lực, tham gia phát triển nền kinh tế nói chung; góp phần xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Thông qua phát triển kinh tế tư nhân, quyền làm chủ của nhân dân, trước hết là quyền làm chủ về kinh tế được phát huy - đó là một trong những cơ sở không thể thiếu để mở rộng quyền làm chủ của nhân dân về chính trị, văn hóa, xã hội.
Khu vực kinh tế tư nhân đã đóng góp đáng kể vào nguồn thu ngân sách nhà nước, vào tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế quốc dân; thu hút một bộ phận lớn lực lượng lao động và đào tạo nguồn nhân lực mới cho thị trường lao động, giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp, hạn chế việc di dân vào đô thị; thúc đẩy đất nước hội nhập kinh tế quốc tế, thu hút vốn và công nghệ.
Bên cạnh những kết quả đạt được, khu vực kinh tế tư nhân còn tồn tại không ít hạn chế, bất cập, đó là quy mô của doanh nghiệp tư nhân còn nhỏ (98,6% số doanh nghiệp tư nhân có quy mô nhỏ và vừa, trong đó chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ; đặc biệt, các doanh nghiệp tư nhân có quy mô siêu nhỏ (dưới 10 người) chiếm tới gần 70%)(11); tỷ lệ doanh nghiệp quy mô vừa chỉ chiếm 1,6%. Do quy mô nhỏ, nên số lượng lao động trong mỗi doanh nghiệp cũng khá nhỏ, trung bình là 18 lao động đặt trong so sánh với doanh nghiệp nhà nước là 504 lao động, doanh nghiệp FDI là 312 lao động(12). Ngoài quy mô việc làm nhỏ, năng suất lao động ở khu vực kinh tế tư nhân tương đối thấp nếu không muốn nói là thấp nhất so với các khu vực kinh tế khác.
Số lượng doanh nghiệp tư nhân phát triển nhanh, nhưng chất lượng hoạt động chưa tương xứng; hằng năm số doanh nghiệp phải thay đổi, chấm dứt hoạt động sản xuất, chuyển hướng hoạt động còn rất lớn. Số doanh nghiệp đăng ký thành lập nhiều, nhưng số thực sự hoạt động chỉ vào khoảng 50%. Điều đó cho thấy sự tăng trưởng thiếu bền vững của các doanh nghiệp tư nhân. Bên cạnh đó, đầu tư đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp tư nhân còn manh mún, không đồng đều, tỷ lệ lớn doanh nghiệp sử dụng thiết bị máy móc cũ kỹ, lạc hậu, nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp tư nhân không ổn định...
Một số khuyến nghị, giải pháp để kinh tế tư nhân phát triển bền vững
Để góp phần khắc phục những hạn chế, bất cập trên, cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp. Từ phía khu vực kinh tế tư nhân, các khuyến nghị giải pháp cần tập trung vào những vấn đề sau:
Một là, về xây dựng chiến lược, quy hoạch.
Để có thể tồn tại và phát triển, khu vực kinh tế tư nhân mà đại diện tiêu biểu của nó là các hộ kinh doanh cá thể, các doanh nghiệp tư nhân cần chủ động xây dựng chiến lược quy hoạch hợp lý trên cơ sở hoàn thiện bộ máy tổ chức quản lý, đẩy mạnh hoạt động marketing, thực hành các biện pháp giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh cùng nhiều biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động khác.
Để chiến lược kinh doanh mang tính khả thi cao, các doanh nghiệp tư nhân cần nghiên cứu kỹ mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước, chiến lược phát triển ngành, nghề; đồng thời, nắm bắt khả năng của mình để xây dựng chiến lược cho tương lai. Mỗi doanh nghiệp cần xây dựng chiến lược riêng, phù hợp với khả năng về vốn, năng lực nhân sự, mục tiêu phát triển, ngành hàng tham gia kinh doanh... Các doanh nghiệp có thể lựa chọn chiến lược riêng cho mình, như: chiến lược sản phẩm; chiến lược giá bán; chiến lược phân phối sản phẩm; chiến lược tăng trưởng; chiến lược tài chính; chiến lược tổ chức nhân sự; chiến lược đối ngoại của doanh nghiệp...
Hai là, về bộ máy tổ chức quản lý.
Các doanh nghiệp phải không ngừng hoàn thiện bộ máy tổ chức quản lý, sắp xếp, sử dụng các nguồn lực một cách hợp lý; hoàn thiện phương thức quản lý và cơ cấu tổ chức; nâng cao trình độ cán bộ, công nhân viên, phát triển văn hóa doanh nghiệp lành mạnh. Cần đào tạo doanh nhân về kiến thức và kỹ năng quản lý doanh nghiệp để có thể thực hành được những mô hình quản trị doanh nghiệp hiện đại. Các doanh nghiệp, các hộ kinh doanh cần vượt qua cung cách hoạt động thiếu bài bản, quản lý phần nhiều dựa vào kinh nghiệm, chạy theo thị trường, thiếu phân tích khoa học. Việc hoàn thiện tổ chức bộ máy, phương thức quản lý cũng như đào tạo cán bộ cần được đưa vào kế hoạch theo một lộ trình xác định.
Chủ động nghiên cứu thị trường, đẩy mạnh hoạt động marketing sẽ giúp người quản lý nắm bắt được nhu cầu, đưa sản phẩm đến người tiêu dùng kịp thời và hiệu quả, bảo vệ được thị phần hiện có và mở rộng kinh doanh sang các lĩnh vực khác. Các phương thức thu hút khách hàng, như quảng cáo, tiếp thị, tư vấn, dịch vụ sau bán hàng,... sẽ mang lại hiệu quả cao cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Ba là, về chủ động phòng ngừa, hạn chế rủi ro.
Trong sản xuất kinh doanh, rủi ro là điều khó tránh khỏi. Bởi vậy, các hộ kinh doanh cá thể, các doanh nghiệp tư nhân cần chủ động phòng ngừa và hạn chế những tác động của chúng. Một cơ sở sản xuất, một doanh nghiệp tư nhân có thể gặp những rủi ro từ mọi khâu của quá trình hoạt động, như rủi ro đầu vào; rủi ro đầu ra hay thị trường tiêu thụ khi thị hiếu người tiêu dùng thay đổi; rủi ro thiên tai; rủi ro về cơ chế, chính sách thay đổi... Để giảm thiểu rủi ro, doanh nghiệp có thể áp dụng các phương pháp, như đa dạng hoá sản phẩm; thâm nhập thị trường từng bước; liên doanh, liên kết; mua bảo hiểm; lập quỹ dự phòng... Các biện pháp kể trên cần được thực hiện phù hợp với điều kiện thực tiễn, năng lực tài chính của doanh nghiệp cũng như phù hợp với những chuyển động của nền kinh tế, của các yếu tố tài chính...
Bốn là, về đổi mới công nghệ.
Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào khu vực và thế giới, với tự do hóa mạnh mẽ cùng những chuẩn mực mới sẽ tạo nhiều cơ hội cho doanh nghiệp tư nhân phát triển, mở rộng thị trường, tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu. Nếu sản phẩm của doanh nghiệp tư nhân không được đổi mới, không đủ sức cạnh tranh, không trụ vững được sẽ bị đánh bật khỏi thị trường. Để hoạt động kinh doanh mang lại hiệu quả như mong muốn, các doanh nghiệp tư nhân cần coi trọng yếu tố công nghệ. Đổi mới công nghệ, hiện đại hóa trang thiết bị được coi là chìa khoá của thành công. Bên cạnh đó, tiết kiệm, giảm giá thành, giảm tỷ lệ hàng kém chất lượng, chống hàng giả,... cũng góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Để đổi mới công nghệ thành công, các doanh nghiệp tư nhân thường gặp muôn vàn khó khăn về thông tin công nghệ, thông tin thị trường, nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn, tài chính, các chính sách pháp lý...; do đó, các doanh nghiệp cần nghiên cứu kỹ và chuẩn bị một lộ trình thích hợp, không loại trừ việc liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp khác cũng như tranh thủ các cơ hội từ phía nhà nước./.
--------------------------------------------------------------------
(*) Bài viết là kết quả nghiên cứu của Đề tài khoa học cấp Đại học Quốc gia “Phát triển thành phần kinh tế tư nhân ở Việt Nam (1999-2014): từ chính sách đến thực tiễn (2016-2018), mã số QG.16.40
(1) Tuyên ngôn của Đảng Lao động Việt Nam được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng thông qua (tháng 2-1951) nêu rõ: “Tiểu thương, tiểu chủ, cần được giúp đỡ để phát triển thương nghiệp và thủ công nghiệp. Những nhà tư sản dân tộc cần được khuyến khích, giúp đỡ hướng dẫn kinh doanh, để góp sức vào việc phát triển kinh tế quốc dân”. Xem Văn kiện Đảng: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 12, tr. 475
(2), (3), (4), (5) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, Phần I, tr.21, 20, 53, 41
(6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới, Sđd, Phần II, tr. 25
(7) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.83(8) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 108
(9) Số liệu của Cục Đăng ký quản lý kinh doanh, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, theo: http://vneconomy.vn/pha-ky-luc-gan-127000-doanh-nghiep-lap-moi-nam-2017-20171225151256465.htm
(10) Số liệu của Tổng cục Thống kê, theo: http://hanoimoi.com.vn/Tin-tuc/Thuong-hieu-DN/889107/doanh-nghiep-lon-dem-tren-dau-ngon-tay-doanh-nghiep-sieu-nho-chiem-toi-74%
(11) Nguyễn Hồng Sơn: Phát triển khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam: Những rào cản và giải pháp, Tạp chí Kinh tế và Quản lý, số 22, tháng 6- 2017
(12) Tổng cục Thống kê: Kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Việt Nam giai đoạn 2014 - 2015, Nxb. Thống kê, Hà Nội, 2016, tr. 122
Phạm Thị Lương Diệu
TS, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội