Thị trường chăm sóc ung thư Việt Nam: Những 'khoảng trống' trị giá tỷ đô và lời giải từ chuyên gia

Quỳnh Như 09:25 | 12/09/2025 Doanh Nhân Việt Nam trên Doanh Nhân Việt Nam trên
Chia sẻ
Hơn một nửa người Việt tin rằng sẽ mắc ung thư vào một thời điểm nào đó, 84% nghĩ rằng phát hiện ung thư sớm đóng vai trò quan trọng trong việc cải thiện kết quả điều trị, chỉ 34% từng được khám sàn lọc ung thư. Nỗi sợ bị bệnh cộng với lo ngại về chi phí sàng lọc/chữa bệnh chính là hai nguyên nhân chính.

Một nghiên cứu mới do Siemens Healthineers ủy quyền thực hiện cho thấy nhận thức của công chúng về việc điều trị ung thư tại Việt Nam còn nhiều hạn chế: từ khâu tầm soát, chẩn đoán đến điều trị và chăm sóc sau điều trị.

Theo khảo sát “Bridging the Gaps: Public Perceptions of the Cancer Care Continuum in Southeast Asia” được YouGov tiến hành với hơn 6.000 người tham dự tại 6 quốc gia Đông Nam Á, phần lớn người dân đều nhận thức rõ tầm quan trọng của việc phát hiện ung thư sớm.

Những khoảng trống trong điều trị ung thư ở Đông Nam Á và Việt Nam

Theo đại diện của Siemens Healthineers, trong năm 2022, đã có 20 triệu ca mắc mới ung thư và 9,7 triệu người đã chết vì ung thư trên khắp thế giới; dự báo đến 2050, sẽ có 35 triệu ca mắc mới ung thư – tăng 77%. Trong đó 50% đến 70% bệnh nhân ung thư cần tiến hành các liệu pháp xạ trị để chữa bệnh hoặc giảm nhẹ.  

Cũng theo Báo cáo, trong khi phần lớn (84%) tin rằng phát hiện ung thư sớm đóng vai trò quan trọng trong việc cải thiện kết quả điều trị, nhưng chỉ 34% số người tham gia khảo sát tại Việt Nam từng được khám sàng lọc ung thư. Trong số 34% này, chỉ 13% đã thực hiện các xét nghiệm tầm soát ung thư cụ thể.

Tại Thái Lan, tỷ lệ người dân đi tầm soát ung thư là 40% - trong đó 10% là tầm soát ung thư cụ thể; tỷ lệ tương đương tại Singapore là 36% - 9%; Malaysia là 25% - 7%, Philippines là 13% - 4% và Indonesia là 8% - 3%.

Khi được hỏi lý do không tầm soát, hơn một phần ba (35%) người Việt Nam, 46% người Philippines và 43% người Singapore cho biết họ “cảm thấy không cần thiết” - đây cũng là tâm lý chung ở các quốc gia khác trong khu vực. Những lý do khác bao gồm chi phí tầm soát quá đắt (22%) và sợ bị chẩn đoán mắc bệnh ung thư (22%).

Nghịch lý này càng thể hiện rõ hơn khi hơn một nửa (56%) người Việt Nam được hỏi tin rằng họ sẽ mắc ung thư vào một thời điểm nào đó trong đời – tỷ lệ cao nhất trong khu vực, song mức độ nhận thức này vẫn chưa dẫn đến việc chủ động thực hiện các biện pháp phòng ngừa. Tỷ lệ trung bình tại Đông Nam Á là 37%, trong đó người Philippines là lạc quan nhất – khi chỉ 23% tin rằng mình sẽ mắc ung thư một lúc nào đó.

Khả năng nhận thức của người Việt Nam về các phương pháp điều trị ung thư cũ lẫn mới. (Ảnh: BTC)

Bên cạnh đó, phần lớn người tham gia khảo sát nhận biết được các liệu pháp điều trị truyền thống như xạ trị (47%), hóa trị (44%) và phẫu thuật (33%). Trong khi đó, các phương pháp hiện đại hơn như điều trị cá thể hóa (26%), điều trị theo hướng dẫn hình ảnh (17%) và liệu pháp miễn dịch (16%) lại ít được biết đến. Mức độ nhận thức chung của Việt Nam về vấn đề này không khác biệt nhiều so với các quốc gia khác trong khu vực Đông Nam Á.

“Việc người dân Việt Nam có ít kiến thức về các phương pháp chữa trị ung thư mới đã giới hạn và khiến các bác sỹ khó cải thiện hiệu quả điều trị ung thư nói chung”, đại diện Siemens Healthineers nhận định.  

Phần lớn người dân Đông Nam Á cho rằng việc điều trị ung thư dễ tiếp cận (41%) và mang lại hiệu quả cao khi được phát hiện và chẩn đoán sớm (50%), nhưng họ vẫn có sự e ngại về chi phí điều trị (48%) và những tác dụng phụ đi kèm (47%). Tại Đông Nam Á, chi phí điều trị là rào cản hàng đầu, nhưng Việt Nam lại là quốc gia có mức độ lo ngại thấp thứ hai (48%), hoàn toàn trái ngược với con số 67% tại Singapore.

Về chăm sóc sau điều trị, theo kết quả của Báo cáo, người dân khu vực Đông Nam Á vẫn còn nhận thức chưa cao.

Sau khi điều trị, hành trình của bệnh nhân ung thư vẫn chưa kết thúc và chăm sóc sau điều trị vô cùng quan trọng. Dù đa số (74%) người dân biết về sự tồn tại của các dịch vụ chăm sóc sau điều trị, nhưng gần một nửa trong số đó (48%) lại không hiểu rõ dịch vụ này bao gồm những gì.

Tương tự các nước láng giềng, người dân Việt Nam mong muốn được tiếp cận dễ dàng với các xét nghiệm chẩn đoán (62%) và được hướng dẫn cụ thể về các dấu hiệu, triệu chứng tái phát bệnh (55%). 

Bên cạnh đó, so với các nước khác trong khu vực, Việt Nam thể hiện sự tin tưởng mạnh mẽ vào công nghệ hiện đại. Có tới 54% người được hỏi kỳ vọng vào việc ứng dụng các công nghệ hiện đại như AI, xét nghiệm di truyền và theo dõi thời gian thực vào quy trình chăm sóc sức khỏe. Đây là tỷ lệ cao thứ hai ở Đông Nam Á, chỉ sau Philippines (58%).

Những giải pháp nâng cao nhận thức về tầm soát, chữa trị và chăm sóc sau ung thư

“Sở dĩ tỷ lệ người Việt Nam đi tầm soát những loại ung thư cụ thể thấp, một phần do người dân thiếu kiến thức, không nhận thức đúng những rủi ro mà ung thư mang lại. Nhiều cộng đồng ở Việt Nam vẫn bối rối về câu chuyện sàng lọc ung thư, nhiều người không biết với triệu chứng gì thì nên đi sàng lọc ung thư gì.

Hiện tại, đã có nhiều loại ung thứ có thể ngăn ngừa bằng sàng lọc. Chi phí tầm soát cao cũng là một rào cản”, PGS. TS Trần Thanh Hương – Phó Viện trưởng Viện Ung thư Quốc gia nhấn mạnh. 

PGS. TS Trần Thanh Hương – Phó Viện trưởng Viện Ung thư Quốc gia (Ảnh:Viện Ung thư Quốc gia)

Vậy nên, giải pháp đầu tiên là tổ chức các chiến dịch quốc gia để nâng cao nhận thức của người dân về nguy cơ ung thư; thông điệp đi kèm phải đơn giản và dễ hiểu. Đối tượng tuyên truyền thông phải bao gồm người dân, bác sỹ, bệnh nhân và lực lượng y tế cơ sở.

Phải tập trung đào tạo những nhân viên làm việc tại trạm y tế hay bệnh viện huyện, bởi đây là những người tiếp xúc gần nhất với người dân địa phương và có khả năng phát hiện bệnh ung thư sớm nhất.

Về chi phí, hiện tại BHYT chỉ chi trả một phần chi phí chữa trị ung thư chứ không phải tất cả. Tất nhiên, nếu BHYT có thể chi trả tất cả, gánh nặng trên vai người bệnh và người nhà sẽ nhẹ hơn. Nếu có cơ chế hợp tác công tư hiệu quả, chi phí chữa trị của người bệnh như khi mua các loại thuốc đặc trị hoặc dịch vụ hóa trị/xạ trị sẽ có giá mềm hơn.

“Hiện 90% dân số Việt Nam có BHYT, tuy nhiên BHYT nói chung sẽ không chi trả các liệu pháp hiện đại như miễn dịch hoặc trúng đích. Những loại thuốc mới và đặc trị khá đắt đỏ so với thu nhập của người dân Việt Nam. Chính phủ vẫn đang thương lượng với nhiều nhà sản xuất/phân phối để có mức giá phù hợp cho người bệnh.  

Ngoài ra, các bên liên quan cũng đang ngồi lại nghiên cứu cân nhắc xem có thể thêm loại thuốc hoặc phương pháp điều trị ung thư mới nào vào danh mục BHTY trong tương lai. Tại Việt Nam, bảng cập nhật các loại thuốc hoặc phương pháp điều trị mới ra mắt hơi chậm so với khu vực.”, PGS. TS Trần Thanh Hương nêu cụ thể.

Còn về phần bác sỹ - người điều trị, cần khuyến khích người dân tăng cường sàng lọc và tầm soát ung thư. Hiện có nhiều sự lựa chọn trong việc chữa trị ung thư và bác sỹ phải đưa ra phương án thích hợp với tình trạng bệnh cũng như túi tiền của người bệnh, thì mới hiệu quả tại Việt Nam. Theo bà, sử dụng liệu pháp hiện đại nhất hay thuốc đắt đỏ nhất chưa hẳn đã tốt nhất cho bệnh nhân.

Ngoài ra, bệnh viện có thể cân nhắc tăng nhập các loại thuốc hoặc vật tư điều trị các loại ung thư hay mắc phải tại Việt Nam như ung thư vú hoặc gan để giảm giá thành. Còn nếu bệnh nhân ung thư muốn giảm chi phí điều trị hoặc sử dụng công nghệ/thuốc chữa bệnh mới, có thể tham gia các thử nghiệm lâm sàng hay đăng ký với quỹ Ngày Mai Tươi Sáng.

Phần mình, ông Fabrice Leguet – Giám đốc kiêm Chủ tịch Siemens Healthineers, Đông Nam Á cho biết khi doanh nghiệp mang bất cứ máy móc hoặc thiết bị y tế nào đến chào hàng với bệnh viện cũng sẽ có mục đích rõ ràng và bối cảnh phù hợp; chứ không phải mang đến những gì mới nhất mà công ty có. Ngoài ra, phòng R&D của công ty sẽ mang đến cho các đối tác một giải pháp tích hợp giữa máy móc với không gian, điện nước, nhân sự...

Về số lượng, có càng nhiều người tham gia sàng lọc ung thư thì giá dịch vụ càng giảm. Việc sử dụng AI vào quản lý hệ thống, sẽ giúp bác sỹ chuẩn bị tốt hơn, tối ưu hiệu quả hoạt động của bệnh viện.

Ông Fabrice Leguet – Giám đốc kiêm Chủ tịch Siemens Healthineers, Đông Nam Á đang chia sẻ (Ảnh: BTC)

Còn theo bà Dai Le – dân biểu liên bang gốc Việt đầu tiên trong lịch sử nước Úc, câu chuyện khuyến khích tầm soát ung thư là không dễ dàng, bởi đây là quyết định cá nhân. Bà từng là một người như vậy. Vì không bao giờ nghĩ mình sẽ mắc ung thư, nên khi nghe ai bảo đi tầm soát, bà chỉ gật cho có chứ không nghiêm túc làm theo. Và không may mắn, sau này bà mắc ung thư vú.

Trong quá trình điều trị ung thư, một trong những vấn đề khiến mà mệt mỏi nhất là phải di chuyển quá nhiều nơi. Nước Úc khá rộng lớn, những địa điểm khám bệnh, hóa trị hay xạ trị đều nằm cách xa nhau; khiến bệnh nhân ung thư vốn sức khỏe không tốt càng mệt mỏi hơn khi di chuyển liên tục. Bà mong trong tương lai, sẽ có một khu phức hợp để người bệnh ung thư tại Úc chỉ cần ở một địa điểm vẫn có thể điều trị toàn diện.

Như trong Báo cáo ở phần đầu, gần một nửa số người được hỏi (44%) cho biết họ sẽ cảm thấy tin tưởng hơn nếu các dịch vụ chăm sóc ung thư được cung cấp theo mô hình “one-stop” kiểu Trung tâm điều trị chuyên sâu.

“Quỹ tư nhân sẽ giúp lấp đầy một vài khoảng trống còn thiếu hụt trong việc điều trị ung thư. Số lượng vẫn là yếu tố then chốt giúp cải thiện giá cả của thuốc, vật tư hay dịch vụ điều trị ung thư. Việt Nam thuận lợi là có dân số lớn và tập trung, khác với Philippine hay Indonesia. Cả hai đất nước nước này đều đứng trước thách thức về mức độ tập trung của dân số và lượng chuyên viên y tế.

Dù ngành chữa trị ung thư là một mảng đầu tư hấp dẫn nhưng không dễ dàng, vì vốn việc điều trị ung thư rất phức tạp. Hơn nữa, các bệnh viện lẫn phòng khám luôn trong tình trạng thiếu người có chuyên môn y tế, kỹ thuật viên…;nên khả năng mở rộng rất thấp. Việc chuyển đổi số hay ứng dụng AI cũng chỉ giúp lấp đầy một phần chứ không thể tất cả.”, TS Shawn Ng, Đối tác quản lý, NSQ Capital bổ sung.

Cũng theo ông, không ai nên sở hữu độc quyền các loại thuốc hoặc phương pháp chữa trị ung thư mới. Và chỉ khi Chính phủ bắt tay vào đầu tư thì mới san bằng được khoảng cách công nghệ và khiến chi phí không còn là rào cản trong tầm soát cũng như chữa trị ung thư cho người dân. Chính phủ nên là bên đứng ra quyết định xem nên đổi mới hoặc đón nhận công nghệ nào sẽ phù hợp với quốc gia mình hơn.