Các chuyên gia hiến kế gì cho chương trình phục hồi kinh tế của Việt Nam?
Ngày 5/12/2021, tại "Diễn đàn Kinh tế Việt Nam 2021: Phục hồi và Phát triển bền vững'', nhiều chuyên gia của các tổ chức quốc tế đã tham luận góp ý kiến về các gói hỗ trợ, chương trình phục hồi kinh tế.
Kinh tế trưởng ADB Việt Nam: Có thể nâng quy mô gói hỗ trợ lên 5 - 7% GDP
Nhìn lại kinh nghiệm của các nước châu Á trong việc thực hiện chính sách tài khóa ứng phó với những tác động bất lợi từ đại dịch COVID-19, qua đó rút ra một số hàm ý chính sách cho Việt Nam, ông Nguyễn Minh Cường - Kinh tế trưởng của Ngân hàng Phát triển Châu Á tại Việt Nam đưa ra 5 nhóm giải pháp chủ yếu.
Thứ nhất, do khủng hoảng kinh tế - xã hội lần này xuất phát từ dịch bệnh COVID-19 mà không phải xuất phát từ khủng hoảng kinh tế - tài chính, do vậy, về phương diện lý luận cũng như thực tiễn, để xử lý triệt để thì các giải pháp chuyên môn đối với y tế vẫn mang tính chất quyết định và chủ yếu, còn chính sách kinh tế vĩ mô là các công cụ mang tính hỗ trợ.
Thứ hai, trong bối cảnh dịch bệnh vẫn còn tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường; dư địa tài khóa được củng cố trong các năm gần đây, an toàn nợ công vẫn được đảm bảo. Trong ngắn hạn, Việt Nam có thể chấp nhận mức bội cao hơn và nợ công tăng trong giai đoạn 2021-2023 để hỗ trợ nền kinh tế.
Tuy nhiên, về dài hạn hơn, khi nền kinh tế đã dần phục hồi, vai trò hỗ trợ của chính sách tài khóa cũng giảm dần, cần có các biện pháp mở rộng cơ sở thu, tăng cường quản lý thu và cải thiện hiệu quả chi ngân sách nhà nước để thiết lập lại kỷ luật tài khóa trong vòng 3-5 năm sau, đảm bảo các chỉ tiêu an toàn tài chính quốc gia trong giai đoạn 2021-2025.
Ông nhấn mạnh gói ngân sách hỗ trợ cho nền kinh tế hiện mới chưa đến 3% GDP nên có thể nâng lên khoảng 5-7% GDP.
Thứ ba, các gói hỗ trợ của Việt Nam nên ưu tiên cho các biện pháp ngắn hạn, như hỗ trợ cho người lao động, doanh nghiệp. Bởi biện pháp ngắn hạn sẽ tác động đến tiềm năng, sự phát triển của Việt Nam trong trung hạn và dài hạn.
Thứ tư, trong giai đoạn trung hạn và dài hạn, Việt Nam nên thúc đẩy giải ngân đầu tư công, tập trung vào phát triển hạ tầng xanh, chuyển đổi số...
Thứ năm, Việt Nam nên tăng cường vào hợp tác quốc tế, giữa các nước, các khu vực với nhau cũng như các tổ chức quốc tế.
PGS.TS Bùi Quang Tuấn: Tổng gói cứu trợ nền kinh tế dựa trên 4 lĩnh vực ưu tiên dự kiến khoảng 666.000 tỷ
Tại Diễn đàn, PGS.TS Bùi Quang Tuấn, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, đã nêu tóm tắt tình hình kinh tế thế giới, chỉ ra hàng loạt thách thức mà kinh tế thế giới hiện đang đối mặt. Đồng thời cũng nêu rõ thực trạng nền kinh tế Việt Nam năm 2021 cùng các vấn đề đặt ra hiện nay như vấn đề nguy cơ lạm phát kép, nguy cơ nợ xấu.
Để phục hồi tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững theo hướng số hóa, PGS.TS Bùi Quang Tuấn đã chỉ rõ những lợi ích của phát triển kinh tế số đối với quốc gia là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển các ngành/lĩnh vực mới, tạo việc làm, thay đổi cơ cấu việc làm, nâng cao chất lượng lực lượng lao động, tăng chất lượng dịch vụ công.
Bàn về các giải pháp can thiệp nền kinh tế, PGS.TS. Bùi Quang Tuấn kiến nghị:
Thứ nhất, cần ưu tiên nguồn lực củng cố hệ thống y tế trên toàn quốc. Cụ thể, gói củng cố hệ thống y tế cần khoảng 76.000 tỷ đồng.
Thứ hai, cần tiếp tục củng cố hệ thống an sinh xã hội. Cụ thể, gói củng cố hệ thống an sinh xã hội cần khoảng 58.000 tỷ đồng.
Thứ ba, cần hỗ trợ doanh nghiệp thiết thực hơn, trong đó gói hỗ trợ doanh nghiệp cần khoảng 244.000 tỷ đồng cùng với việc hạ mặt bằng lãi suất là rất cấp thiết.
Thứ tư, tiếp tục cải cách thể chế, giải quyết những điểm nghẽn trong giải ngân vốn đầu tư công. Gói đầu tư công mà PGS.TS. Bùi Quang Tuấn đề xuất có quy mô là 288.000 tỷ đồng trong giai đoạn 2 năm 2022-2023.
Như vậy, tổng gói cứu trợ nền kinh tế dựa trên 4 lĩnh vực ưu tiên dự kiến có giá trị khoảng 666.000 tỷ đồng, tương đương khoảng 8% tổng giá trị GDP nền kinh tế năm 2020.
Ông Tuấn nhấn mạnh, để đảm bảo các biện pháp trên thực hiện thành công, cần đảm bảo sự phối hợp để thiết kế và thực hiện các chính sách giữa các bộ ngành thuộc Chính phủ và Quốc hội.
Các cơ quan của Chính phủ, Quốc hội và các cơ quan tham mưu cần phối hợp chặt chẽ trong việc tính toán nhằm đảm bảo dòng tiền hỗ trợ thực sự được đưa vào hoạt động sản xuất của doanh nghiệp và hộ gia đình thay vì chuyển qua kênh đầu cơ các tài sản tài chính rủi ro, vốn không đóng góp cho phục hồi tăng trưởng.
Trưởng đại diện IMF tại Việt Nam: Các chương trình hồi phục cần nhanh chóng và quyết liệt hơn
Ông Francois Painchaud – Trưởng đại diện IMF tại Việt Nam, cho biết kinh tế thế giới đang trong quá trình phục hồi bất chấp các đợt dịch COVID bùng phát, chỉ số giá sản xuất (PPI) tăng trong bối cảnh giá đầu vào ngày càng tăng và chuỗi cung ứng gián đoạn.
Tiến trình hồi phục này là có lợi cho Việt Nam, tuy nhiên, mức độ phục hồi của các nước phụ thuộc lớn vào tỷ lệ tiêm chủng. Tăng trưởng sụt giảm mạnh trong khi tỷ lệ tiêm chủng ở mức thấp để lại những vết sẹo trong trung hạn tại các nước mới nổi và đang phát triển với không gian chính sách hạn chế, phụ thuộc vào lĩnh vực du lịch.
Về phản ứng chính sách tài khóa, ông Francois Painchaud cho rằng, quy mô các biện pháp hỗ trợ tài khóa ở các nền kinh tế phát triển có thể không áp dụng được ở các quốc gia đang phát triển bao gồm Việt Nam, các hỗ trợ chính sách cần được tinh chỉnh dựa trên tình hình phát triển kinh tế cũng như diễn tiến dịch bệnh ở từng nước.
Các biện pháp đóng cửa biên giới, giãn cách xã hội cần đi kèm với các hỗ trợ về mặt chính sách cần thiết, kịp thời cho các hộ gia đình và doanh nghiệp bị ảnh hưởng nặng nề nhất khi chúng ta hướng tới việc mở cửa trở lại. Đặc biệt ở Việt Nam, khi tiến trình hồi phục đang được triển khai hiệu quả, cần tập trung vào tăng trưởng bền vững, tạo sức chống chịu cao.
Theo ông Francois Painchaud, trong năm 2021, Việt Nam đối mặt với đợt dịch bùng phát lớn hơn và dai dẳng hơn, khiến nền kinh tế gián đoạn nghiêm trọng, ảnh hưởng lớn đến việc làm, đặc biệt là ở khu vực phi chính thức. Các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp phải rất nhiều thách thức trước dịch bệnh.
Hiện Việt Nam đang gỡ bỏ các rào cản, dần hồi phục lại nền kinh tế. Đại diện IMF khuyến nghị Việt Nam thực hiện các chính sách hỗ trợ phục hồi cần thiết như: tạo không gian tài khóa dồi dào; tăng chi tiêu cho y tế, tiêm chủng và trợ cấp; áp dụng biện pháp chuyển lỗ ngược; tăng cường đầu tư công; hỗ trợ đầu tư tư nhân; duy trì ổn định kinh tế vĩ mô.
Ông Francois Painchaud cho rằng mục tiêu phục hồi và phát triển của Việt Nam là có thể đạt được nhưng đòi hỏi những cải cách cơ cấu quyết liệt hơn, cần phục hồi mạnh mẽ, cải thiện khả năng chống chịu trước đại dịch, quyết liệt cải cách cơ cấu và duy trì ổn định kinh tế vĩ mô.
Ông nhấn mạnh, các chương trình hồi phục đã được chính quyền Việt Nam cân nhắc để đưa ra những cải cách nhằm nâng cao năng suất nhưng kế hoạch cải cách này cần được thực hiện một cách quyết đoán và nhanh chóng hơn.
Bà Carolyn Turk - Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam: Tôi tin rằng Việt Nam vẫn còn dư địa tài khóa cho các gói hỗ trợ
Đối với vấn đề phục hồi kinh tế hậu COVID-19, chúng tôi có 4 khuyến nghị dành cho Việt Nam.
Thứ nhất là Việt Nam cần tiếp tục đầu tư cho hệ thống y tế. Hiện tại, Việt Nam đang làm rất tốt công tác tiêm vaccine cho người dân với tốc độ bao phủ vaccine ấn tượng.
Do đó, chúng tôi cho rằng, các bạn nên tiếp tục đẩy mạnh việc đặt hàng và phân phối vắc xin ngừa COVID-19, đồng thời cũng cần lên kế hoạch phân phối vắc-xin trong tương lai. Ngoài ra, chúng tôi cho rằng, Việt Nam nên cân nhắc khả năng tái xây dựng hệ thống y tế hậu đại dịch.
Thứ hai, Việt Nam nên cân nhắc việc sử dụng cả chính sách tài khóa và tiền tệ để tái thiết nền kinh tế, đặc biệt là giảm sự cứng nhắc trong hệ thống phân bổ ngân sách, cho phép nguồn vốn được phân bổ dễ dàng hơn giữa các danh mục chi tiêu.
Và phải cân nhắc kỹ lưỡng hơn về danh mục các khoản đầu tư hiện nay. Hiện danh mục đầu tư có rất nhiều dự án có tên nhưng chưa có thiết kế chi tiết, chưa có nghiên cứu khả thi để triển khai. Tôi tin rằng, quá trình chuẩn bị kỹ lưỡng một danh mục đầu tư tốt là yếu tố then chốt để quá trình đầu tư vào các hoạt động phục hồi kinh tế diễn ra nhanh chóng.
Thứ ba, chúng ta cũng nên cân nhắc về tính hiệu quả, 1 yếu tố quan trọng trong phục hồi kinh tế và cũng đóng góp vai trò quan trọng vào tăng trưởng kinh tế trong tương lai của Việt Nam. Việt Nam nên cân nhắc đến tính hiệu quả không chỉ trong các doanh nghiệp, nhằm nâng cao năng lực sản xuất, mà còn phải để tâm đến việc nâng cao tính hiệu quả của hoạt động chính phủ. Một cách để đạt được mục tiêu này là cân nhắc việc áp dụng các cơ chế số hóa mới để đạt được hiệu quả cao hơn.
Về phía chính phủ, Việt Nam đã đạt được những bước tiến tích cực như quá trình phê duyệt đã được số hóa, nhưng vẫn còn nhiều việc phải làm để thực sự đạt được mục tiêu hợp lý và hiệu quả nhất. Cùng lúc đó, chính phủ cũng cần tính tới việc đầu tư cho các doanh nghiệp, để giúp họ ứng dụng được những công nghệ số mới, nhằm giúp cho Việt Nam giữ được vị thế tiên phong trong mặt trận đổi mới và công nghệ, bởi khu vực tư nhân sẽ là động lực cho quá trình phục hồi và phát triển của Việt Nam.
Thứ tư, Việt Nam nên cân nhắc tới tiêu dùng cá nhân, hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp, cho người dân. Các gói hỗ trợ kinh tế tại Việt Nam cho các doanh nghiệp, cá nhân, các hộ gia đình so với khu vực cho tới thời điểm này vẫn còn thấp, cho nên chúng ta có thể cân nhắc việc gia tăng hỗ trợ và chúng tôi tin rằng vẫn còn dư địa tài khóa để làm việc này.
Tuy nhên, để các gói hỗ trợ hiệu quả thì chúng ta cần quy trình thực hiện mạnh mẽ và mục tiêu cụ thể, rõ ràng.
Ông Patrick Lenain - Phó Vụ trưởng, Vụ Kinh tế, Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD)
Ông Patrick Lenain nhận định từ bỏ chính sách “zero COVID” là một chính sách đúng hướng của Việt Nam. Nhờ chính sách học cách sống chung an toàn với dịch bệnh mới này, các hoạt động kinh tế xã hội hiện đang dần được nối lại.
Sản xuất công nghiệp đã phục hồi và sự gián đoạn chuỗi cung ứng đang giảm dần. Nhưng điều này không đảm bảo tốc độ tăng trưởng nhanh trong tương lai.
Đại dịch vẫn hoành hành ở nhiều nơi trên thế giới, biến thể mới Omicron là một nguy cơ mới đe đọa triển vọng tăng trưởng kinh tế và sẽ mất nhiều thời gian để các hoạt động như du lịch, lữ hành và khách sạn, trở lại bình thường.
Theo ông, Việt Nam cần triển khai thêm những chính sách gì để hỗ trợ sự phục hồi của nền kinh tế, ông đề xuất ba ưu tiên sau:
Thứ nhất, điều cần thiết là phải đạt được tỷ lệ tiêm chủng rất cao, càng sớm càng tốt, bao gồm cả việc triển khai tiêm mũi nhắc lại vaccine phòng covid-19. Mua vắc xin thôi chưa đủ, việc phối hợp tốt để phân phối, tổ chức các chiến dịch tiêm chủng, thuyết phục những người còn lưỡng lự đi tiêm chủng, cũng là điều cần thiết.
Tại Hàn Quốc, ngoài các cơ sở công lập, các phòng khám y tế tư nhân cũng cung cấp dịch vụ tiêm chủng tại các cơ sở của họ. Ở nhiều quốc gia, những người chưa tiêm chủng phải chịu các hạn chế - ví dụ như ở Áo và Đức, họ phải có kết quả xét nghiệm âm tính mới được đi máy bay, đi tàu hoặc đến nhà hàng, trong khi những người tiêm chủng đầy đủ được miễn các hạn chế này.
Thứ hai, các giải pháp hỗ trợ kinh tế vĩ mô cần phải mạnh mẽ và nhanh chóng. So với các nền kinh tế phát triển, việc triển khai các gói hỗ trợ chính sách còn ít và bị trì hoãn ở nhiều nền kinh tế mới nổi.
Điều này dẫn đến sự phục hồi kinh tế thất bại, có nguy cơ làm suy yếu tăng trưởng dài hạn. Nếu không nhận được đủ sự hỗ trợ, nhiều công ty sẽ phá sản, các kế hoạch đầu tư không được triển khai, công nhân mất việc làm, trẻ em không được đến trường.
Trong khi đó, các nền kinh tế thị trường mới nổi triển khai các gói hỗ trợ lớn đã vận hành rất tốt. Kể từ khi đại dịch bùng phát, Malaysia đã hai lần nâng trần nợ công, từ 55% GDP lên 65% GDP. Malaysia đã tung ra các gói cứu trợ khổng lồ, có quy mô lên tới hơn 35% GDP, giúp nền kinh tế tiếp tục phát triển.
Thứ ba, chi tiêu công nhiều hơn sẽ đồng nghĩa với việc nợ nhiều hơn, vì vậy việc lựa chọn các chương trình chi tiêu tốt là điều cần thiết. Hầu hết các chính phủ đều đang tìm cách xây dựng lại tốt đẹp hơn sau đại dịch - nói cách khác, họ muốn đầu tư cho tương lai.
Ví dụ, điều này có nghĩa là tăng cường đầu tư vào cơ sở hạ tầng kỹ thuật số và kỹ năng số, để tất cả các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể tiếp cận với các công nghệ như thương mại điện tử, điện toán đám mây và trí tuệ nhân tạo.
Đầu tư công cũng phải tính tới vấn đề biến đổi khí hậu bằng cách cắt giảm lượng khí thải carbon, ví dụ như tạo ra nhiều điện năng hơn từ các tuabin gió, các tấm pin mặt trời, khí sinh học và sinh khối, thay vì điện than.
Đầu tư vào giáo dục và phát triển kỹ năng cũng là điều cần thiết: sau đại dịch, chúng ta sẽ không trở lại với những công việc như cũ: Việt Nam sẽ cần ngày càng nhiều nhân viên chăm sóc sức khỏe được trả lương tốt hơn, nhiều chuyên gia kỹ thuật số hơn và nhiều chuyên gia quản lý chuỗi cung ứng hơn.
Việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng sẽ khó khăn hơn, do các nền kinh tế phát triển đang cố gắng mang dây chuyền sản xuất và việc làm trở lại đất nước của họ, vì vậy, Việt Nam sẽ cần phải tăng cường khả năng cạnh tranh và sự hấp dẫn hơn nữa đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
Nói tóm lại, Việt Nam có tiềm năng kinh tế rất lớn. Trước đại dịch, thành tựu kinh tế của Việt Nam rất nổi bật, với mức tăng trưởng GDP trung bình gần 7% mỗi năm. Đây là con số rất là cao. Với những cải cách chính sách đúng đắn, chúng tôi tin tưởng rằng Việt Nam sẽ đạt được sự thịnh vượng về kinh tế trong tương lai gần.