Chính phủ đề xuất chi hơn 125.000 tỷ đồng chăm sóc sức khoẻ người dân giai đoạn 2026 - 2035

Anh My 14:34 | 25/11/2025 Doanh Nhân Việt Nam trên Doanh Nhân Việt Nam trên
Chia sẻ
Chính phủ dự kiến dành 125.478 tỷ đồng để thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển giai đoạn 2026 - 2035.

Sáng 25/11, tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 10, Quốc hội đã nghe trình bày Tờ trình và Báo cáo thẩm tra Chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia về chăm sóc sức khoẻ, dân số và phát triển giai đoạn 2026 - 2035, theo Cổng TTĐT Quốc hội.

Trình bày tóm tắt Tờ trình, Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan cho biết chương trình đặt ra các mục tiêu cụ thể như: nâng tỷ lệ xã, phường, đặc khu đạt Bộ tiêu chí quốc gia về y tế xã 90% vào năm 2030 và đạt 95% đến năm 2035; đảm bảo 100% người dân được lập sổ sức khoẻ điện tử và quản lý sức khoẻ theo vòng đời đến năm 2030 đạt 100% và duy trì đến năm 2035.

Chương trình cũng hướng tới việc nâng cao năng lực xét nghiệm của CDC các tỉnh, thànhphố đủ năng lực xét nghiệm tác nhân, kháng nguyên, kháng thể các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, chất lượng nước sạch, vệ sinh trường học đến năm 2030 đạt 100%; tỷ lệ trạm y tế triển khai dự phòng, quản lý và điều trị bệnh không lây nhiễm theo quy trình đạt 100% vào năm 2030 và duy trì đến năm 2035.

Ngoài ra, chương trình cũng hướng tới giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ dưới 5 tuổi xuống dưới 15% vào năm 2030 và tiếp tục giảm còn dưới 13% vào năm 2035. Cùng với đó, tỷ lệ người dân tiếp cận ít nhất một kênh thông tin đại chúng chính thống về chăm sóc sức khoẻ ban đầu được yêu cầu đạt 50% vào năm 2030 và tăng lên 80% vào năm 2035.

Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan trình bày Tờ trình của Chính phủ. (Ảnh: Cổng TTĐT Quốc hội).

Về dân số, chương trình đặt mục tiêu nâng tỷ suất sinh thôđến năm 2030 tăng thêm 0,5% so với năm 2025 và đến năm 2035 tăng thêm 0,5% so với năm 2030. Đồng thời, tỷ số giới tính khi sinh đến năm 2030 giảm xuống dưới 109 bé trai/100 bé gái sinh ra sống và đến năm 2035 giảm xuống dưới 107 bé trai/100 bé gái sinh ra sống.

Chương trình cũng chú trọng nâng cao chất lượng dân số thông qua việc tăng tỷ lệ cặp nam nữ được tư vấn và khám sức khoẻ trước kết hôn, đạt 90% vào năm 2030 và 95% vào năm 2035; 70% phụ nữ mang thai được tầm soát ít nhất 4 loại bệnh tật bẩm sinh phổ biến nhất vào năm 2030 và 90% vào năm 2035; 90% trẻ sơ sinh được tầm soát ít nhất 5 loại bệnh bẩm sinh phổ biến nhất vào năm 2030 và đạt 95% vào năm 2035.

Đặc biệt, số lượng người yếu thế, người dễ bị tổn thương được tiếp cận, sử dụng các dịch vụ tại các cơ sở chăm sóc xã hội đến năm 2030 tăng thêm 70% so với năm 2025 và đến năm 2035 tăng thêm 90% so với năm 2030.

Liên quan đến nguồn lực thực hiện chương trình, Bộ trưởng Bộ Y tế cho biết tổng vốn thực hiện toàn giai đoạn 2026 - 2035 là 125.478 tỷ đồng. Thời gian thực hiện là 10 năm, từ năm 2026 đến hết năm 2035, chia làm hai giai đoạn, bao gồm từ 2026 - 2030 và 2031 - 2035. Bộ Y tế chủ trì thực hiện chương trình.

Chương trình được chia thành 5 dự án thành phần, bao gồm: Nâng cao năng lực mạng lưới y tế cơ sở; Nâng cao hiệu quả hệ thống phòng bệnh và nâng cao sức khoẻ; Dân số và phát triển; Nâng cao chất lượng chăm sóc xã hội cho người yếu thế; Truyền thông y tế, quản lý, theo dõi và giám sát thực hiện chương trình. Bộ Y tế chủ trì thực hiện chương trình.

Cần đánh giá kỹ khả năng huy động vốn ngân sách địa phương

Chủ nhiệm Uỷ ban Văn hoá và Xã hội Nguyễn Đắc Vinh trình bày Báo cáo thẩm tra. (Ảnh: Cổng TTĐT Quốc hội).

Trình bày Báo cáo thẩm tra, Chủ nhiệm Uỷ ban Văn hoá và Xã hội Nguyễn Đắc Vinh cho biết Uỷ ban tán thành sự cần thiết xây dựng chương trình cũng như tên gọi, đối tượng thụ hưởng, tổng mức đầu tư giai đoạn 2026 - 2035, mục tiêu và các dự án thành phần của chương trình theo đề xuất của Chính phủ.

Song song đó, Uỷ ban Văn hoá và Xã hội đề nghị Chính phủ lưu ý một số nội dung. Trong đó, về tổng vốn thực hiện, cơ quan thẩm tra đề nghị Chính phủ xác định rõ nguồn vốn, bảo đảm bố trí đủ nguồn vốn tối thiểu; bảo đảm cân đối vốn hợp lý trong thực hiện hai mục tiêu quan trọng của chương trình là chăm sóc sức khoẻ và dân số và phát triển. Trong đó, mức đầu tư cho các nội dung về dân số và phát triển dự kiến chỉ chiếm tỷ lệ 15,5% so với tổng mức đầu tư giai đoạn 2026 - 2030.

Chính phủ cần đánh giá sát khả năng huy động nguồn vốn ngân sách địa phương và tính toán đề xuất mức bố trí vốn ngân sách địa phương phù hợp hơn với tình hình thực tiễn, nhất là với địa phương khó khăn trong bố trí vốn đối ứng.

Cùng với đó, tiếp tục đánh giá, có giải pháp huy động các nguồn lực xã hội hoá, giảm áp lực cho ngân sách nhà nước, thể chế hoá yêu cầu của Kết luận số 149 và Nghị quyết số 72 của Bộ Chính trị; rà soát, không bố trí vốn các nội dung hoạt động tại các tiểu dự án đã được bảo đảm bằng nguồn kinh phí thường xuyên.

Về đối tượng thụ hưởng, Uỷ ban Văn hoá và Xã hội kiến nghị Chính phủ nghiên cứu bổ sung đối tượng ưu tiên là người khuyết tật, đồng thời chỉnh lý quy định về đối tượng ưu tiên theo hướng để Chính phủ quy định chi tiết bảo đảm thể chế hoá đầy đủ theo tinh thần Nghị quyết số 72 và thuận tiện trong triển khai thực hiện.

Đối với mục tiêu của Chương trình, Uỷ ban đề nghị tiếp tục rà soát để đảm bảo sự thống nhất giữa mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể. Các chỉ tiêu cần được cụ thể hoá để thuận lợi cho kiểm tra, giám sát và đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội, đồng thời cần làm rõ căn cứ đề xuất, tính khả thi và giải pháp thực hiện của một số mục tiêu.

Về các dự án thành phần, Uỷ ban đề nghị lựa chọn nội dung cốt lõi, tránh dàn trải nguồn lực; bảo đảm mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp thống nhất với nhau. Cơ quan thẩm tra cũng đề nghị Chính phủ nghiên cứu bổ sung dự án về phát huy y học cổ truyền, dược liệu và bảo đảm an ninh, an toàn thực phẩm theo yêu cầu của Nghị quyết 72.