Chính thức định hình gói kích thích kinh tế quy mô dự kiến 347.000 tỷ đồng
Theo báo cáo của Chính phủ về Đề án chính sách tài khóa, tiền tệ để hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, về chính sách tài khóa, tiền tệ để hỗ trợ thực hiện chương trình, quy mô thực hiện dự kiến trong năm 2022-2023 tương ứng với 5 nhóm nhiệm vụ, giải pháp như sau.
(1) Mở cửa nền kinh tế gắn với phòng, chống dịch bệnh COVID-19, đầu tư nâng cao năng lực y tế: 60.000 tỷ đồng;
(2) Đảm bảo an sinh xã hội và hỗ trợ việc làm: 53.150 tỷ đồng;
(3) Hỗ trợ phục hồi doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh: 110.000 tỷ đồng;
(4) Phát triển kết cấu hạ tầng, khơi thông nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển: 113.850 tỷ đồng;
(5) Cải cách thể chế, cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh.
Ngoài ra, huy động từ các Quỹ tài chính ngoài NSNN khoảng 10.000 tỷ đồng.
Quy mô chính sách tài khóa khoảng 291.000 tỷ đồng
Báo cáo của Chính phủ cho biết, tổng quy mô chính sách tài khóa khoảng 291.000 tỷ đồng. Trong đó quy mô tăng bội chi để hỗ trợ trực tiếp từ NSNN khoảng 240.000 tỷ đồng, cụ thể các gói hỗ trợ như sau.
Gói thứ nhất, miễn, giảm thuế, tiền thuê đất, phí, lệ phí phải nộp cho doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh có quy mô 64.000 tỷ đồng.
Thứ hai, chi trực tiếp từ NSNN là 176.000 tỷ đồng, chỉ sử dụng để chi đầu tư phát triển. Trong đó, dự kiến kinh phí 14.000 tỷ cho việc đầu tư xây mới, cải tạo, nâng cấp, hiện đại hóa hệ thống y tế cơ sở, y tế dự phòng, trung tâm kiểm soát bệnh tật cấp vùng, viện và bệnh viện cấp trung ương.
Gói an sinh xã hội, lao động, việc làm dự kiến có quy mô 8.150 tỷ đồng.
Gói hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh có quy mô 40.000 tỷ đồng từ nguồn NSNN. Mức hỗ trợ lãi suất là 2%/năm đối với các khoản vay thương mại cho doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh trong 2 năm 2022-2023.
Điều kiện hỗ trợ là các đối tượng thuộc đối tượng thụ hưởng, đã được vay vốn hoặc đáp ứng các điều kiện vay vốn, được ngân hàng thương mại chấp thuận.
Về đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, Chương trình dự kiến chi 103.164 tỷ đồng cho hạ tầng giao thông chiến lược, bao gồm đường cao tốc Bắc - Nam phía Đông, một số tuyến cao tốc, tuyến nối các cửa khẩu, quốc lộ.
Ngoài ra dự kiến chi 5.000 tỷ đồng cho các dự án bảo đảm an toàn hồ chứa, phòng chống sạt lở bờ sông, bờ biển, thích ứng biến đổi khí hậu.
Cấp vốn điều lệ cho Quỹ hỗ trợ phát triển du lịch, dự kiến kinh phí thực hiện là 300 tỷ đồng từ NSNN.
Đầu tư chuyển đổi số, hạ tầng số các ngành, lĩnh vực khác như việc làm, giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đào tạo, hóa đơn điện tử ngành thuế,... với kinh phí thực hiện khoảng 5.386 tỷ đồng từ NSNN.
Ngoài ra, Chính phủ dự kiến bố trí từ nguồn tăng thu, tiết kiệm chi NSTW năm 2021 khoảng 6.600 tỷ đồng để hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động
Về giải pháp gia hạn thời hạn nộp thuế, tiền thuê đất, doanh nghiệp giảm chi phí khoảng 6.000 tỷ đồng thông qua gia hạn thuế, tiền thuê đất dự kiến khoảng 135.000 tỷ đồng. Cụ thể, tiếp tục gia hạn thời hạn nộp các khoản thuế (thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, thuế giá trị gia tăng) và tiền thuê đất của năm 2022 (như đã áp dụng tại các Nghị định số 41/2020/NĐ-CP ngày 8/4/2020 và số 52/2021/NĐ-CP ngày 19/4/2021 của Chính phủ); khoảng 115.000 tỷ đồng.
Gia hạn thời hạn nộp thuế tiêu thụ đặc biệt trong năm 2022 (như đã áp dụng tại các Nghị định số 109/2020/NĐ-CP ngày 15/9/2020, Nghị định số 104/2021/NĐ-CP ngày 04/12/2021 của Chính phủ), khoảng 20.000 tỷ đồng.
Ngoài ra, tăng thêm 38.400 tỷ đồng hạn mức phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh cho Ngân hàng Chính sách Xã hội để thực hiện 6 chính sách.
Đặt mục tiêu giảm lãi suất cho vay tối thiểu 0,5%-1% trong hai năm
Về chính sách tiền tệ, Chính phủ cho biết không đưa ra tổng quy mô giải pháp tiền tệ (lượng tiền cung ứng) trong Chương trình mà cụ thể hóa 7 giải pháp điều hành.
Thứ nhất, điều hành đồng bộ, linh hoạt các công cụ và giải pháp chính sách tiền tệ để góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối, đảm bảo an toàn hoạt động của hệ thống các tổ chức tín dụng.
Bên cạnh đó, điều hành đồng bộ các công cụ lãi suất, nghiệp vụ thị trường mở, đồng thời chỉ đạo các tổ chức tín dụng tiếp tục tiết giảm chi phí quản lý để phấn đấu giảm lãi suất cho vay tối thiểu 0,5%-1% trong hai năm. Trường hợp rủi ro lạm phát tăng cao có sự điều chỉnh linh hoạt.
Giải pháp thứ ba là tiếp tục cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ, miễn giảm lãi đối với khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19, theo dõi sát diễn biến kinh tế, tiền tệ để có giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp, người dân phù hợp, đồng thời bảo đảm an toàn hoạt động của hệ thống các tổ chức tín dụng.
Ngoài ra, điều hành tín dụng hỗ trợ phục hồi tăng trưởng kinh tế nhưng không chủ quan với rủi ro lạm phát; điều tiết thanh khoản phù hợp để tạo điều kiện để tổ chức tín dụng đẩy nhanh tốc độ giải ngân cho các đối tượng thụ hưởng gói hỗ trợ lãi suất từ Chương trình.
Bên cạnh đó, điều tiết tiền tệ hợp lý, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa để việc huy động qua phát hành trái phiếu chính phủ không làm ảnh hưởng lớn đến mặt bằng lãi suất thị trường, tiết kiệm chi phí phát hành trái phiếu chính phủ cho NSNN.
Giải pháp tiếp theo là sử dụng khoảng 46.000 tỷ đồng từ nguồn tài chính hợp pháp khác để nhập khẩu vắc xin, thuốc điều trị và thiết bị, vật tư y tế phục vụ phòng, chống dịch. Theo dõi sát diễn biến thị trường ngoại tệ để sẵn sàng bán can thiệp khi thị trường và tỷ giá có biến động để bình ổn tâm lý thị trường trong trường hợp Bộ Tài chính phát hành trái phiếu chính phủ ngoại tệ trong nước.
Giải pháp cuối cùng là tiếp tục tái cấp vốn đối với Ngân hàng Chính sách xã hội để cho người sử dụng lao động vay trả lương ngừng việc cho người lao động. Cân đối giải pháp về tiền tệ hỗ trợ Chương trình với tổng thể phương án cơ cấu lại các ngân hàng được kiểm soát đặc biệt.
Về các chính sách khác, Chính phủ cho biết sẽ sử dụng khoảng 5.000 tỷ đồng từ Quỹ Dịch vụ viễn thông công ích để phát triển hạ tầng viễn thông, internet, trong đó sử dụng 1.000 tỷ đồng để mua máy tính bảng thực hiện Chương trình “Sóng và máy tính cho em”.
Sử dụng khoảng 5.000 tỷ đồng từ Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ của doanh nghiệp để đổi mới công nghệ, ươm tạo công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp khoa học công nghệ, thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; giải mã công nghệ; mua thiết bị, máy móc, nguyên vật liệu cho đổi mới công nghệ, phục vụ trực tiếp hoạt động sản xuất kinh doanh.