Cơ hội, thách thức và kịch bản tăng trưởng kinh tế Việt Nam 2020
Về thuận lợi, Việt Nam tiếp tục có sức hút đầu tư mạnh ở khu vực do đang đứng ở vị trí thứ 8 (tăng 15 bậc so với năm 2018) trong bảng xếp hạng các nền kinh tế tốt nhất thế giới để đầu tư năm 2019 theo báo cáo của U.S.News & World Report.
Việt Nam cũng đang có những tiến bộ về chỉ tiêu lạm phát, thâm hụt ngân sách, dự trữ ngoại hối và gia tăng tổng cầu nội địa của nền kinh tế gần 100 triệu dân. CMCN 4.0 và sự góp mặt của các FTA như CPTPP, EVFTA được kỳ vọng sẽ mang lại nhiều cơ hội phát triển cho nền kinh tế Việt Nam thông qua việc mở rộng xuất khẩu, đầu tư, ứng dụng KHCN, giúp cải thiện chuỗi cung ứng của Việt Nam.
Bên cạnh đó, các FTA tác động tích cực tới lao động, trong đó có những ngành thâm dụng lao động như dệt may, da giày và dự báo sẽ được hưởng lợi nhiều nhất. Các hiệp định cũng sẽ tạo sức ép cải thiện thể chế và môi trường kinh doanh, từ đó tạo ra tác động tích cực trung và dài hạn.
Tuy nhiên, TS.Võ Thị Vân Khánh cho rằng, nền kinh tế Việt Nam bước vào năm 2020 với nhiều thách thức lớn.
Là một nền kinh tế có độ mở cao, Việt Nam sẽ chịu ảnh hưởng trực tiếp từ xu thế tăng trưởng chậm lại của nền kinh tế thế giới và nhiều nước nới lỏng tiền tệ trong thập niên tới, gắn với chiến tranh thương mại Mỹ-Trung, mâu thuẫn địa chính trị, chính sách tiền tệ khó dự đoán và nợ công của các nước vẫn tăng cao.
Kinh tế Việt Nam tiếp tục chịu tác động của các xu thế đa cực địa chính trị, xu thế già hóa dân số, cách mạng công nghệ 4.0, xu thế hình thành các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới (Mega – FTA) và gia tăng tính kết nối khu vực, xu hướng dịch chuyển dữ liệu xuyên biên giới, tác động của biến đổi khí hậu, sự nổi lên của châu Á với hai quốc gia Trung Quốc, Ấn Độ, trong khi đồng USD sẽ giảm dần sức mạnh vốn có.
Ngoài ra, trong nền kinh tế, Việt Nam sẽ tiếp tục đối diện với nhiều áp lực của tư bản thân hữu, kiểm soát độc quyền kinh tế, bảo vệ quyền lợi người lao động, tăng cường bảo vệ an sinh xã hội, tình trạng chuyển giá, né và trốn thuế, sản xuất hàng nhái, hàng kém chất lượng, tội phạm buôn lậu núp bóng công ty trong cho vay nặng lãi và buôn ma túy, động vật quý hiếm…
“Cùng với đó, cơ cấu kinh tế chuyển dịch quá nhanh sang khu vực dịch vụ, trong khi nền tảng công nghiệp còn yếu. Các ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao đóng góp còn thấp, chi phí dịch vụ logistic còn cao. Đặc biệt, xuất khẩu vẫn phụ thuộc vào nhóm hàng do doanh nghiệp FDI dẫn dắt. Kim ngạch xuất khẩu tăng, nhưng hàm lượng nội địa trong xuất khẩu không tăng tương ứng. Các doanh nghiệp trong nước, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa chưa tham gia nhiều vào chuỗi giá trị toàn cầu. Năng lực đổi mới sáng tạo chưa được cải thiện nhiều và vẫn là điểm nghẽn trong phát triển kinh tế của Việt Nam khi CMCN 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới”, TS.Võ Thị Vân Khánh lưu ý.
Dự báo về sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam năm 2020, bà Vân Khánh trích dẫn:
Theo dự báo của Trung tâm Thông tin và dự báo kinh tế-xã hội quốc gia (NCIF), Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2021-2025 có thể diễn ra với hai kịch bản.
Kịch bản 1: Tốc độ tăng trưởng của Việt Nam sẽ đạt khoảng 7%/năm, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát ở mức 3,5-4,5%. Năng suất lao động được cải thiện hơn với tốc độ tăng trưởng khoảng 6,3%/năm. Với kết quả này, đến năm 2025, GDP bình quân đầu người của Việt Nam đạt khoảng 4.688 USD, đưa Việt Nam gia nhập nhóm nước có thu nhập trung bình cao.
Kịch bản 2: Nếu Việt Nam có thể tận dụng được công nghệ trong CMCN 4.0 và thu hút đầu tư có cải thiện chất lượng, phát triển tốt nền tảng kinh tế hiện tại thì kỳ vọng GDP tăng trưởng có thể lên tới 7,5%/năm.
Tuy nhiên, TS. Võ Thị Vân Khánh cũng dẫn trích dự báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam với con số thấp hơn, dưới đánh giá của các tổ chức quốc tế.
Theo đó, các tổ chức chuyên gia quốc tế thận trọng hơn khi dự báo tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam năm 2020 sẽ thấp hơn so với năm 2019, tương ứng 6,5% (theo Ngân hàng thế giới) và 6,7% (theo Ngân hàng ADB).
Bà Khánh đặc biệt nhấn mạnh về giải pháp mà ông Eric Sidgwick, Giám đốc Quốc gia ADB đã đưa ra để khuyến nghị giúp Việt Nam tập trung thực hiện trong chu kỳ phát triển kinh tế mới.
Đó là, cải thiện cơ sở hạ tầng quốc gia, không chỉ về mặt số lượng những công trình mà còn cả những yếu tố mềm hơn như các dịch vụ hậu cần và tính hiệu quả của những dịch vụ đó.
Phát triển nguồn lực con người, tăng cường giáo dục thực chất từ các cấp độ để đào tạo kỹ năng mà các thị trường yêu cầu, trong đó, đặc biệt là kỹ năng sử dụng công nghệ, tạo thêm nguồn lực tăng trưởng cho khu vực tư nhân, đặc biệt là khối doanh nghiệp trong nước.
Nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý nhà nước và thể chế; tạo ra động lực tăng trưởng kinh tế có khả năng kháng chịu với tình trạng biến đổi khí hậu đang diễn biến ngày càng nghiêm trọng. Đặc biệt, hệ thống ngân hàng Việt Nam phải đạt chuẩn quốc tế của Hiệp ước Basel II bởi đây là chuẩn mực quốc tế về quản trị rủi ro, nâng cao hiệu lực hoạt động. Hiện mới chỉ có 1/3 số ngân hàng Việt Nam đạt được tiêu chuẩn này.
Tiếp đó, Việt Nam cần nhận thức và quan tâm tới thực hiện quy tắc xuất xứ hàng hóa, tránh để rơi vào tình trạng bị đánh giá là lợi dụng căng thẳng thương mại trên thế giới để cạnh tranh không công bằng.
Ngoài ra, các chính sách tiền tệ của NHNN cần đẩy mạnh những công cụ gián tiếp hơn thông qua cơ chế giá cả thị trường và các chính sách lãi suất về tổng thể, lãi suất của từng ngân hàng và liên ngân hàng đối với hoạt động kinh tế, để tạo điều kiện cho cơ chế giá cả và thị trường hoạt động kém hiệu quả.