Doanh nghiệp Việt còn nhiều dư địa để tận dụng ưu đãi từ CPTPP
(DNVN) - Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) được kỳ vọng tạo thêm xung lực mới cho phát triển thương mại và đầu tư, đẩy mạnh hơn nữa cải cách kinh tế tại Việt Nam. Tuy nhiên, theo nhiều chuyên gia, hiệu quả thực thi và khả năng tận dụng những lợi ích tiềm năng của CPTPP còn phụ thuộc vào năng lực thể chế và của doanh nghiệp trong nước.
Nhằm đánh giá tổng quan tình hình kinh tế - xã hội của Việt Nam, mức độ sẵn sàng cho việc thực hiện Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), ở cấp quốc gia và doanh nghiệp; xác định cơ hội và thách thức đối với cộng đồng doanh nghiệp và Chính phủ và đề xuất yêu cầu thúc đẩy cải cách cơ cấu và hoàn thiện thể chế, tăng cường năng lực cho doanh nghiệp nhằm thực thi hiệu quả Hiệp định CPTPP, Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương(CIEM) đã tổ chức Hội thảo “Thực hiện hiệu quả Hiệp định CPTPP trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế: Yêu cầu hoàn thiện thể chế và nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp Việt Nam” vào sáng ngày 19/2.
Trong những năm qua, hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam liên tục mở rộng cả về quy mô, thị trường và mặt hàng. Tốc độ tăng trưởng xuất, nhập khẩu trung bình hàng năm giai đoạn 2007-2019 tương ứng là 15,6% và 14,2%. Cán cân thương mại chủ yếu đạt thặng dư sau năm 2011, lần lượt từ mức 748,8 triệu USD năm 2012 lên đến trên 9,9 tỷ USD năm 2019.
Đánh giá về kết quả mà Hiệp định CPTPP đã mang lại trong thời gian qua, Trưởng ban Nghiên cứu tổng hợp tại CIEM Nguyễn Anh Dương cho biết, CPTPP ít nhiều đã có đóng góp tích cực vào hoạt động thương mại của Việt Nam. Với khối nước CPTPP, tỷ trọng xuất khẩu của Việt Nam chiếm gần 30,2% giai đoạn 2007-2008 nhưng giảm dần xuống 23% giai đoạn 2009-2010 và 18% giai đoạn 2011-2018. Trong năm 2019 – năm đầu tiên thực hiện CPTPP, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang 6 nước thành viên đã phê chuẩn Hiệp định đạt 34,4 tỷ USD, tăng 8,3%, trong khi kim ngạch nhập khẩu đạt 30,1 tỷ USD, chỉ tăng 1%.
Đồng thời, trong giai đoạn 2010-2019, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của Việt Nam tăng bình quân 12,4%/năm về số dự án, 5,1%/năm về vốn đăng ký, và 7,4%/năm về vốn thực hiện. Quy mô vốn FDI thực hiện liên tục đạt những kỷ lục mới, trong đó có con số 20,4 tỷ USD năm 2019. Niềm tin của các nhà đầu tư ngày càng được củng cố trong bối cảnh kinh tế vĩ mô ổn định, môi trường đầu tư – kinh doanh không ngừng được cải thiện theo hướng thông thoáng hơn, chính sách thu hút FDI ngày càng được hoàn thiện, bên cạnh những yếu tố khác...
Đặc biệt, ông Nguyễn Anh Dương khẳng định, Hiệp định CPTPP có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy cải cách môi trường đầu tư - kinh doanh của Việt Nam, các cơ quan hoạch định chính sách và cộng đồng nhà đầu tư cũng sẵn sàng hơn với những cơ hội từ CPTPP.
Theo đó, CPTPP nằm trong số những hiệp định thương mại có yêu cầu cao nhất đến môi trường và nhìn chung, công tác xây dựng khung khổ pháp lý nhằm thực hiện hiệu quả CPTPP đã có sự chuyển biến tích cực.
Tuy vậy, ông Nguyễn Anh Dương cho hay, việc thực thi hiệu quả Hiệp định CPTPP vẫn đòi hỏi Việt Nam phải xử lý một số yêu cầu về thể chế, bao gồm hiểu đúng và đầy đủ các nội dung pháp lý trong CPTPP, cải thiện hiệu quả việc phối hợp giữa các Bộ, ngành liên quan, kịp thời rà soát và ban hành các văn bản pháp luật thực thi Hiệp định này.
Ở cấp độ doanh nghiệp, theo Trưởng ban Nghiên cứu tổng hợp tại CIEM, doanh nghiệp có cơ hội không nhỏ từ Hiệp định CPTPP. Các doanh nghiệp đã có sự quan tâm, tìm hiểu về CPTPP. Dù vậy, doanh nghiệp còn phải điều chỉnh, xử lý một số vấn đề quan trọng để sẵn sàng hơn đối với CPTPP. Cụ thể, về mức độ hiểu biết, các doanh nghiệp còn quá lưu tâm đến vấn đề ngắn hạn, mới chỉ hiểu về thuế và cắt giảm thuế chứ chưa thực sự hiểu đầy đủ về quy tắc xuất xứ.
Tuy nhiên, ông Nguyễn Anh Dương nhấn mạnh, doanh nghiệp Việt còn nhiều dư địa để tận dụng ưu đãi trong Hiệp định này. Vì vậy, để tận dụng tối đa lợi ích từ CPTPP, doanh nghiệp cần xử lý các thách thức, cải thiện năng lực cạnh tranh, hài hòa việc thực hiện CPTPP với các tuyến hội nhập khác. Đồng thời, Chính phủ cần củng cố hơn nữa đồng thuận xã hội về tiến trình và các biện pháp cải cách, cân bằng các mục tiêu chính sách, đồng thời tạo dựng thêm không gian để hỗ trợ doanh nghiệp.
Đóng góp thêm ý kiến về vấn đề này, TS. Lê Đăng Doanh, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương khẳng định, tính “công khai, minh bạch” là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu mà các doanh nghiệp Việt Nam cần làm tốt nếu muốn có lợi thế từ CPTPP.