Hàng dệt may giá trị cao vẫn giữ giá và mở rộng thị phần

09:56 | 16/12/2020 Doanh Nhân Việt Nam trên Doanh Nhân Việt Nam trên
Chia sẻ
Nhiều doanh nghiệp và chuyên gia cho rằng, trong bối cảnh khó khăn chung do dịch COVID-19, hàng dệt may giá trị cao vẫn giữ giá và mở rộng thị phần.
Tổng kết 1 năm sau COVID-19 và phát triển bền vững, nhiều doanh nghiệp và chuyên gia trực thuộc Hiệp hội Dệt may Việt Nam (Vitas) nhận định ngành dệt may và da giày Việt Nam vẫn đạt được sản lượng xuất khẩu cao, khả năng liên kết đã tốt hơn. Điều này sẽ tạo cơ hội cho ngành dệt may, da giày có bước "nhảy vọt" trong những năm tới.
 
 
Hàng dệt may giá trị cao vẫn giữ giá và mở rộng thị phần - ảnh 1
Ngành dệt may, da giày sẽ có bước "nhảy vọt" trong những năm tới
 
Bà Đỗ Quỳnh Chi, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Quan hệ lao động thông tin, dịch COVID-19 cũng tác động mạnh tới doanh nghiệp dệt may và giày dép, có tới 94,2% doanh nghiệp da giày, 87,1% doanh nghiệp dệt may bị giảm đơn hàng, 84,5% doanh nghiệp da giày, 53,5% doanh nghiệp dệt may bị khách hoãn hủy đơn và 74,8 doanh nghiệp da giày, 22,9% doanh nghiệp dệt may không xuất khẩu được.
 
Trước những tác động của dịch COVID-19, nhiều doanh nghiệp đã thay đổi chiến lược về phát triển sản phẩm và tìm khách hàng mới.
 
“Xu hướng ngắn hạn và trung hạn là đa dạng hóa khách hàng, thị trường và sản phẩm là cứu cánh cho các doanh nghiệp dệt may duy trì sản xuất. Còn doanh nghiệp da giày xu hướng giảm gia công, đa dạng hóa khách hàng. Còn dài hạn là xu hướng công nghệ xanh mạnh mẽ và tiếp tục tự động hóa”, bà Chi cho biết.
 
Một điểm đặc biệt mà khảo sát doanh nghiệp được bà Chi chỉ ra, dịch COVID-19 đã khiến cho các doanh nghiệp tăng mạnh nhu cầu liên kết với các doanh nghiệp khác tại Việt Nam.
 
Cụ thể, nhu cầu liên kết giữa các doanh nghiệp trong dịch COVID-19 gồm: mua bán nguyên vật liệu trong nước để thay thế nguồn cung nhập khẩu bị gián đoạn hoặc có giá thành cao hơn; chia sẻ đơn hàng, đặc biệt giữa các công ty lớn và các công ty vừa và nhỏ; học hỏi kinh nghiệm của nhau như công nghệ, máy móc, thực hiện các tiêu chuẩn môi trường như xử lý nước thải, dùng năng lượng mặt trời...và các vấn đề khác.
 
Cũng theo ông Vũ Đức Giang, Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam, ngoài động lực từ dịch COVID-19, việc phải đáp ứng các tiêu chuẩn về nguồn gốc xuất xứ cũng đang thúc đẩy các nhà máy và cả nhãn hàng tăng cường mua bán nguyên vật liệu trong nước. Công ty Sợi Phú Bài đã thúc đẩy việc bán sợi cho nhiều doanh nghiệp FDI trong nước trong thời gian dịch.
 
Nhiều nhà máy may cho biết, họ đã và đang thuyết phục nhãn hàng sử dụng vải và nguyên phụ liệu trong nước thay vì nhập khẩu hoàn toàn như trước đây để tận dụng được ưu đãi thuế quan qua hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA).
 
Khảo sát của Trung tâm Nghiên cứu Quan hệ lao động cho thấy, 46,6% doanh nghiệp đã thực hiện việc liên kết với doanh nghiệp khác và 39,5% dự định thực hiện việc liên kết trong thời gian từ 1-3 năm tới.
 
Tuy nhiên, hiện nay, các doanh nghiệp đa phần thiếu các kênh thông tin và cơ chế hỗ trợ để liên kết. Chẳng hạn, hiện chưa có một cổng thông tin toàn diện về ngành dệt may và giày dép,túi xách ở Việt Nam để cho phép các doanh nghiệp có thể tìm kiếm các đối tác hợp tác hiệu quả. Do đó, đa phần là ‘tự thân vận động’ bằng cách tìm hiểu qua truyền miệng hoặc quan hệ cá nhân.
 
Theo ông Nguyễn Văn Thời, Chủ tịch Công ty cổ phần Đầu tư và Thương mại TNG, khi dịch COVID-19 xảy ra, việc đứt gãy nguyên phụ liệu từ nước ngoài khiến doanh nghiệp gặp khó, buộc doanh nghiệp phải tìm kiếm nguồn cung từ các nhà cung ứng trong nước. Chính dịch COVID-19 đã kéo doanh nghiệp trong nước “lại gần” nhau hơn, kết nối tốt hơn.
 
Theo thông tin được Vitas đưa ra, nhu cầu của châu Âu và Hoa Kỳ trong năm 2020 giảm lần lượt là 45% và 40% với hàng may mặc, giảm 27% và 21% với giầy dép. Cho tới thời điểm quý IV/2020, đại dịch COVID-19 tiếp tục diễn biến phức tạp tại Hoa Kỳ và châu Âu, khiến cho thời điểm hồi phục của ngành thời trang về mức trước khi đại dịch được dự đoán là cuối năm 2022, đầu năm 2023.
 
Mặc dù vậy, hai ngành dệt may và da giày Việt Nam cũng có nhiều cơ hội trong bối cảnh thương mại toàn cầu thay đổi. Trung Quốc không chỉ giảm tổng lượng xuất khẩu lên tới 50% với một số mặt hàng mà mức giá cũng giảm sâu nhất là 20%. Hàng may mặc xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là mặt hàng khó may, có giá trị cao và nhờ vậy vẫn giữ giá, mở rộng thị phần tại thị trường Hoa Kỳ. Vào tháng 6/2020, Việt Nam đã trở thành nhà xuất khẩu lớn nhất hàng may mặc vào Hoa Kỳ, vị trí mà Trung Quốc chiếm giữ nhiều năm nay.
 
Ở thị trường châu Âu, hiện tại Việt Nam mới chiếm khoảng 3% thị phần. các mặt hàng này. Với hiệp định EVFTA có hiệu lực ngày 1/8/2020, dự báo xuất khẩu giày sẽ tăng 50% và dệt may tăng 67% vào 2025. Các doanh nghiệp đã bắt đầu một số điều chỉnh mang tính chiến lược trong thời gian từ 1-3 năm tới. Cùng đó, có tới 55,7% doanh nghiệp dự định thúc đẩy tự động hóa, 49,8% sẽ phát triển sản phẩm mới, 39,9% sẽ đa dạng hơn nữa sản phẩm và 41,5% sẽ đầu tư nâng cao kĩ năng lao động.
 
Ông Nguyễn Văn Thời, Chủ tịch TNG cho hay, nhu cầu thế giới có sụt giảm trong năm tới, nhưng sẽ không nhiều lắm. Quan trọng là có cạnh tranh được với các nước như Ấn Độ, Trung Quốc... hay không. “Chúng tôi hoàn toàn có đủ tự tin, về nguyên liệu, công ty đã làm với các nhãn hàng lớn, đã ký đơn hàng đến tháng 6/2021 rồi, đặt tiền mua nguyên liệu từ các nhà cung cấp. Về cơ bản, những doanh nghiệp lớn, có công nghệ, quản trị sẽ không gặp nhiều khó khăn. Năm 2021 vẫn sẽ chưa hết khó, nhưng 2022-2023 sẽ bật lên rất mạnh”.
 
Cũng theo chia sẻ của ông Vũ Đức Giang, có tới gần một nửa nhãn hàng thời trang cho biết sẽ tăng mua từ Việt Nam sau dịch COVID-19. Một phần do chiến lược đa dạng hóa chuỗi cung ứng và một phần do các hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam vừa tham gia. Số còn lại cân nhắc về việc thiếu nguyên phụ liệu khiến các nhãn hàng từ châu Âu và khối Hiệp định CPTPP không được hưởng ưu đãi thuế qua Hiệp định EVFTA và CPTPP.
"Chúng ta sẽ vượt khó 2021, 2022, thậm chí 2023; đến cuối quý III/2023 nếu dịch COVID-19 kiểm soát được thì sẽ về trạng thái bình thường của năm 2019. Các hiệp định thương mại tự do đang có kết cấu thị trường tương đối tốt. Để kéo đơn hàng, cộng đồng doanh nghiệp phải xây dựng liên kết chuỗi chặt chẽ, chia sẻ thông tin, giải pháp công nghệ, quản trị, đặc biệt là chia sẻ về những đơn hàng trong bối cảnh COVID-19. Thời gian qua, nhiều doanh nghiệp gặp khó nhưng nhiều doanh nghiệp nhận đơn hàng rất lớn. Hiệp hội đã tốt việc kết nối và san sẻ đơn hàng...", ông Giang bày tỏ.
 

Cơ hội từ tính linh hoạt và hiệu quả của FTAs

 
Tin vui vừa đến với ngành dệt may Việt Nam là Bộ Công Thương Việt Nam và Bộ Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng Hàn Quốc vừa ký kết được thỏa thuận do Chính phủ hai nước ủy quyền về triển khai điều khoản cộng gộp xuất xứ nguyên liệu dệt may giữa Việt Nam và Hàn Quốc trong Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU.
 
 
Hàng dệt may giá trị cao vẫn giữ giá và mở rộng thị phần - ảnh 2
Doanh nghiệp Việt sẽ tận dụng nguồn nguyên liệu dệt may từ Hàn Quốc để xuất khẩu sang EU
 
Điều khoản cộng gộp xuất xứ nguyên liệu dệt may giữa Việt Nam và Hàn Quốc đã cho phép sản phẩm dệt may Việt Nam được phép xuất khẩu vào EU và vẫn hưởng những ưu đãi của Hiệp định FTA Việt Nam- EU. Kết quả đàm phán mới nhất này giữa các bên cho thấy tính linh hoạt và hiệu quả của các hiệp định tự do thương mại song phương thế hệ mới (FTA) mà Việt Nam tận dụng được.
 
Thỏa thuận này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng giúp doanh nghiệp Việt Nam tận dụng nguồn nguyên liệu dệt may chất lượng cao từ Hàn Quốc để sản xuất, xuất khẩu đi thị trường EU.
 
Hiện nay, EU là thị trường có quy mô lớn nhất về nhu cầu tiêu thụ hàng dệt may với kim ngạch nhập khẩu trị giá hơn 250 tỉ đô la Mỹ /năm. Năm 2019, xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang EU mới chỉ đạt 4,3 tỉ đô, chiếm 2% thị phần của thị trường EU rộng lớn và đầy tiềm năng. Con số này cho thấy, xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang EU vẫn còn rất nhỏ so với những tiềm năng mà thị trường này đem lại.
 
Khi có Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA), các chuyên gia kinh tế dự báo kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào thị trường EU sẽ tăng nhanh với mức khoảng 67% đến năm 2025 so với kịch bản không có hiệp định.
 
Tuy nhiên, theo cam kết tại EVFTA, bên cạnh việc đáp ứng tiêu chí khắt khe về chất lượng, để hưởng lợi ích về cắt giảm thuế quan, các doanh nghiệp phải đảm bảo các yêu cầu về nguồn gốc xuất xứ rất chặt chẽ. Cụ thể, quy tắc xuất xứ “từ vải trở đi”, tức là vải nguyên liệu được dùng để may quần áo phải được dệt tại Việt Nam hoặc các nước thành viên EU.
 
Đây vẫn là điểm yếu của ngành dệt may trong nước do phần lớn nguyên phụ liệu dệt may đang phải nhập khẩu từ các nguồn không phải là thành viên của EVFTA. Để xử lý điểm yếu về nguồn nguyên liệu dệt may, Việt Nam đã đàm phán với các nước EU đưa vào Hiệp định EVFTA điều khoản cho phép doanh nghiệp Việt Nam được cộng gộp hàm lượng xuất xứ của nguyên liệu dệt may nhập khẩu từ Hàn Quốc (nước đã ký FTA với EU) vào sản phẩm dệt may sản xuất tại Việt Nam để được hưởng ưu đãi thuế quan khi xuất khẩu sang các nước EU.
 
Minh Hoa