Sự khan hiếm hàng hóa trên thị trường Mỹ thúc đẩy sự hồi phục kinh tế trên toàn cầu
Một dòng tiền khổng lồ đang vượt qua biên giới Mỹ và lan tỏa ra khắp thế giới, tạo bàn đạp để thúc đẩy phục hồi toàn cầu ở mức độ chưa từng có trong nhiều thập kỷ, tạo niềm tin cho các doanh nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu khổng lồ của người Mỹ.
Các nhà kinh tế cho biết, nền kinh tế Mỹ, được tăng cường nhờ gói kích cầu trị giá gần 6.000 tỷ USD và nhu cầu hàng hóa thế giới tăng cao giống với siêu chu kỳ hàng hóa Trung Quốc đã trải qua sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008.
Trong khi các quốc gia khác phần lớn hoan nghênh sự bùng nổ nhu cầu từ nền kinh tế lớn nhất thế giới, ảnh hưởng của sự mở rộng này đang tác động trực tiếp khắp các thị trường tài chính và gây ra sự xáo trộn trên toàn thế giới như tắc nghẽn chuỗi cung ứng ở Đông Á, ảnh hưởng đến tiền tệ và giá hàng hóa bùng nổ.
Angelo Trocchia cho rằng:“Chúng tôi cảm thấy làn sóng lạm phát toàn cầu sắp xảy ra”. Hiện tại, cô đang là giám đốc điều hành của công ty kính mắt Ý Safilo Group SpA, có nhà máy ở Trung Quốc đang sản xuất hết công suất và phải nhập giá nguyên liệu rất cao đối với nhựa. "Chúng tôi cần biết các Ngân hàng Trung ương sẽ làm gì”.
Vào giữa những năm 2000, Mỹ là đầu tàu chính và duy nhất cho tăng trưởng toàn cầu, cho tới khi sự trỗi dậy của Trung Quốc cung cấp động lực thứ hai và thường là đầu tàu của nền kinh tế thế giới.
Hiện nay, Trung Quốc, mặc dù vẫn đang phát triển mạnh mẽ, nhưng dự kiến sẽ chững lại vào cuối năm sau, bất chấp việc nước này phục hồi nhanh chóng sau đại dịch, vì Bắc Kinh đang tìm cách kiềm chế tín dụng. Sự phục hồi kinh tế chậm hơn của Châu Âu, bị đè nặng bởi chi tiêu tiêu dùng yếu, cũng đang góp phần làm giảm lạm phát và nhu cầu toàn cầu.
Ngược lại, Mỹ đã phê duyệt gói kích cầu lớn gấp khoảng bảy lần tỷ trọng GDP thế giới và gói kích thích tài chính của Trung Quốc sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008.
Theo Tổ chức Hợp tác Kinh tế OECD, chương trình chi tiêu gần đây nhất của Mỹ dự kiến sẽ nâng sản lượng lên tới 0,5 điểm phần trăm ở Nhật Bản, Trung Quốc và khu vực đồng Euro trong 12 tháng tới, và lên đến 1 điểm phần trăm ở Canada và Mexico. OECD hồi tháng 5 đã nâng dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm nay lên 5,8%, mức tăng nhanh nhất kể từ năm 1973.
Adam Posen, nhà cựu hoạch định chính sách của Ngân hàng Anh nói rằng “Đây là những con số khổng lồ. Những chính sách tài khóa này đang ở mức mà chúng ta chưa từng thấy bao giờ ở thời bình”. Ông nói, Nhật Bản và châu Âu có thể chỉ tăng trưởng khoảng 1% một năm hoặc ít hơn theo thời gian. "Sẽ có một mức độ mà Châu Âu, Trung Quốc và Nhật Bản đều sẽ hưởng lợi từ chính sách tài khóa khổng lồ của Mỹ".
Tác động gợn sóng của sự tăng trưởng vượt trội của Mỹ đối với hệ thống tài chính toàn cầu vượt xa so với Trung Quốc, hiện tại hoặc sau năm 2008, bởi vì thị trường vốn của Trung Quốc vẫn tương đối cách ly, trong khi đồng USD thống trị các thị trường nợ quốc tế và dự trữ ngoại hối.
Nhiều quốc gia được hưởng lợi từ thương mại gia tăng, nhưng nhiều trong số đó phải đối mặt với nguy cơ lạm phát nóng. Đồng USD mạnh hơn và lợi suất trái phiếu cao hơn, có thể làm chậm tốc độ phục hồi của họ.
Đồng USD đã tăng giá so với các đồng tiền khác kể từ khi các quan chức FED báo hiệu vào giữa tháng 6 rằng họ dự kiến sẽ tăng lãi suất vào cuối năm 2023. Để bù đắp cho sự mất giá từ đồng tiền của họ và để kiểm soát lạm phát, các ngân hàng trung ương ở Nga, Brazil và Thổ Nhĩ Kỳ đã tăng lãi suất vài lần trong những tuần gần đây.
Tamara Basic Vasiljev-nhà kinh tế của Oxford Economics ở London cho rằng “điều đáng sợ nhất mà các thị trường mới nổi phải chịu là chi phí đi vay cao hơn. Nhưng nếu nền kinh tế đó phụ thuộc vào USD, việc bắt buộc phải tăng tỷ giá ngay cả khi nó không giải quyết được gì là điều không thể tránh khỏi”.
Các chính sách tiền tệ nới lỏng của FED đã được kiểm chứng ở dòng tiền đổ vào Mỹ cho đến nay, nhưng bất kỳ thay đổi nào trong chính sách của FED sẽ gây rủi ro cho nhiều thị trường mới nổi, đặc biệt là những thị trường có thâm hụt tài khoản vãng lai lớn.
Nhiều công ty tàu đặt mua thêm containers để chuẩn bị cho lượng đơn hàng bùng nổ.Ảnh:The Wall Street Journal.
Một bước đi toàn cầu hướng tới lãi suất cao hơn, với FED là trọng điểm, sẽ có nguy cơ kìm hãm sự phục hồi ở một số nơi, đặc biệt là vào thời điểm khi nợ của thị trường mới nổi đang ở mức cao. Theo Viện Tài chính Quốc tế, nó đã tăng lên mức kỷ lục hơn 86.000 tỷ USD.
Tuy nhiên, nếu FED tiếp tục giữ lãi suất thấp, điều đó có thể gây ra bong bóng giá tài sản toàn cầu. Các ngân hàng trung ương ở Scandinavia và Hàn Quốc đã báo hiệu kế hoạch thắt chặt chính sách tiền tệ một phần để hạn chế bong bóng tài sản tiềm ẩn, đặc biệt là bất động sản.
Đối với Mỹ, sự bùng nổ nhu cầu của họ có thể giúp tăng cường quan hệ kinh tế với các đồng minh khi bản thân Trung Quốc ngày càng hướng về kinh tế nội địa và ngày đang mất lòng tin chính trị với các nước.
Trong khi Mỹ vẫn là nền kinh tế lớn nhất thế giới, ảnh hưởng kinh tế và chính trị của nước này ở Châu Á đã bị suy giảm bởi sự trỗi dậy của Trung Quốc trong hơn một thập kỷ. Những nơi như Úc và Đài Loan dễ bị Trung Quốc ép buộc kinh tế hơn, khi Bắc Kinh hạn chế hoặc tạm dừng buôn bán một số mặt hàng để đạt được các mục tiêu chính trị.
Theo OECD, nền kinh tế Trung Quốc dự kiến sẽ tăng trưởng 8,5% trong năm nay, và mức tăng trưởng tương đương với nền kinh tế của Úc trong 5 năm tới đến năm 2026.
Ở một chiều hướng khác, nền kinh tế Mỹ dự kiến sẽ phục hồi mạnh nhất kể từ đầu những năm 1980, tăng trưởng 6,9% trong năm nay. Điều đó rất quan trọng đối với nền kinh tế thế giới vì người tiêu dùng Mỹ là nền tảng của thương mại toàn cầu. Theo số liệu năm 2017 của Deloitte, Mỹ chiếm khoảng 27% chi tiêu trên toàn thế giới, so với chỉ khoảng 11% của Trung Quốc.
Một phần lớn sản lượng kinh tế ở các quốc gia khác phụ thuộc vào chi tiêu tiêu dùng của Mỹ, dự kiến sẽ tăng khoảng 10% so với cùng kỳ năm ngoái vào năm 2021 sau khi điều chỉnh theo lạm phát - mức tăng mạnh nhất kể từ năm 1946 - theo Oxford Economics.
Thu nhập của người Mỹ vẫn không ngừng tăng lên qua đại dịch. Các hộ gia đình Mỹ đã tích lũy được 2.600 tỷ USD "tiết kiệm vượt mức", theo một tính toán của Moody’s so sánh hành vi của họ năm 2020 với năm 2019 và Mỹ đang chi tiêu mạnh vào hàng hóa sản xuất ở nước ngoài.
Theo HSBC, Mỹ dự kiến sẽ giữ mức giá trị nhập khẩu tăng khoảng 170 tỷ USD hàng năm cho đến năm 2026, so với khoảng 140 tỷ USD của Trung Quốc.
Mỹ sẽ chi vào hàng nhập khẩu ở mức kỷ lục 876 tỷ USD nhiều hơn so với số tiền họ nhận được cho xuất khẩu trong năm nay, một biện pháp được gọi là thâm hụt tài khoản vãng lai, trong khi Trung Quốc sẽ nhận được 274 tỷ USD cho xuất khẩu của mình hơn là chi trả cho nhập khẩu, theo Tiền tệ Quốc tế Quỹ. Trung Quốc, quốc gia đã có thặng dư tài khoản vãng lai lớn nhất thế giới vào năm ngoái, đã chứng kiến xuất khẩu tăng gần 40% trong quý đầu tiên của năm 2021 so với một năm trước đó.
Nhu cầu nhập khẩu khổng lồ của Mỹ trái ngược hoàn toàn với hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, khi nhiều hộ gia đình thay vào đó tập trung vào việc trả nợ.
Kỳ vọng về sự mở rộng kéo dài nhiều năm tại Mỹ đang thúc đẩy nhiều doanh nghiệp trên khắp thế giới đầu tư vào sản xuất. Morgan Stanley dự kiến khoản đầu tư vào điều chỉnh lạm phát toàn cầu sẽ tăng hơn 1/5 vào cuối năm 2022 so với mức trước đại dịch, sau nhiều năm tăng trưởng trầm lắng.
Điều đó đặc biệt quan trọng đối với Trung Quốc, nơi đầu tư gia tăng và nhu cầu xuất khẩu mạnh sẽ giúp bù đắp cho sự phục hồi chậm hơn nhiều trong tiêu dùng nội địa, theo OECD.
Lin Guo’ai, đồng sáng lập của Myatu Pedelec Technology Co., một nhà sản xuất xe đạp điện có trụ sở tại Quảng Châu, cho biết: “Gói kích cầu khổng lồ ở Mỹ chắc chắn là tin tốt cho chúng tôi và ngành công nghiệp của Trung Quốc”.
Các đơn đặt hàng nước ngoài của công ty đã tăng hơn 80% trong năm ngoái, với gần 2/3 đơn đặt hàng mới đến từ các khách hàng Mỹ. Nhu cầu mạnh đến mức ông Lin cho biết ông không lo ngại về mức thuế 25% mà Mỹ áp dụng đối với xe đạp điện từ Trung Quốc. Công ty đang chi 120 triệu nhân dân tệ (18,8 triệu USD) để xây dựng một nhà máy sản xuất các bộ phận như khung xe hiện vẫn phải nhập ngoài.
Các công ty kỹ thuật của Đức cũng nhận thấy sự gia tăng nhu cầu máy móc để lắp ráp cho các nhà máy châu Á chuyên xuất khẩu sang Mỹ. Công ty sản xuất chất bán dẫn Đài Loan đã công bố kế hoạch đầu tư quy mô lớn để nâng cao sản xuất chips, đại đa số dành cho thị trường Mỹ. Nông dân ở các nước như Brazil đang đặt hàng máy móc để giúp cung cấp cho thị trường Mỹ các sản phẩm như dầu.
Ayumi Hayashida, giám đốc quan hệ công chúng và nhà đầu tư của nhà máy sản xuất robot công nghiệp Yaskawa Electric Corp cho biết: “Các công ty hiện đang tích cực thực hiện chi tiêu vốn mà họ đã dự kiến”. Đơn đặt hàng của họ từ Bắc Mỹ đã tăng 26% trong ba tháng tính đến tháng Hai so với quý trước.
Thị trường nhà ở Mỹ đang bùng nổ đã thúc đẩy Uponor Oyj, một nhà sản xuất đường ống Phần Lan có sản phẩm được sử dụng trong khoảng 1/3 ngôi nhà mới của Mỹ, phải bổ sung dây chuyền sản xuất mới với tốc độ "nhanh như các kỹ sư của chúng tôi có thể làm" tại một nhà máy mới mua ở Minnesota, Giám đốc điều hành Jyri Luomakoski cho biết. Doanh số bán hàng của họ ở Bắc Mỹ đã tăng 22% trong quý đầu tiên, so với mức tăng trưởng khoảng 8% ở châu Âu.
Lợi nhuận dồi dào cho các công ty vận tải biển như A.P. Moller-Maersk A / S, CMA CGM SA và Hapag-Lloyd AG đang thúc đẩy họ mở rộng đội tàu của mình. Những đơn đặt hàng đối với container mới của 5 tháng đầu năm 2021 đã cao gấp đôi so với toàn bộ đơn đặt hàng của năm 2019 và 2020 cộng lại, theo nhà cung cấp dữ liệu hàng hải VesselsValue Ltd.
Trong khi đó, khách du lịch Mỹ thì đang háo hức chờ đợi để được đi du lịch. Marriott International Inc. đã chứng kiến sự gia tăng 40% trong số lượng đặt phòng từ Mỹ đến Liên minh Châu Âu trong hai tuần sau khi khối liên minh EU công bố kế hoạch mở cửa đối với những người đã được tiêm vaccine vào mùa xuân 2022.
Giám đốc điều hành Marriot- ông Anthony Capuano nói rằng "Khách du lịch đang mòn mởi chờ đợi bất kỳ tin tức nào về việc châu Âu mở cửa”.
EU đã chấm dứt hơn một năm hạn chế chặt chẽ đối với du khách Hoa Kỳ vào ngày 18 tháng 6, thậm chí còn thúc giục các chính phủ cho phép người Mỹ vào khối ngay cả khi họ không được tiêm chủng đầy đủ, nhưng quyết định nằm trong tay chính phủ các quốc gia. Các nền kinh tế tập trung vào du lịch như Hy Lạp và Ý đã mở cửa biên giới cho người Mỹ, trong khi một số nền kinh tế như Phần Lan vẫn đóng cửa.
Các hãng hàng không Mỹ bao gồm Delta và Alaska Air đã bắt đầu đặt hàng máy bay từ các nhà sản xuất nước ngoài như Airbus của Châu Âu và Embraer của Brazil, khi họ mở các đường bay đến Châu Âu và Châu Mỹ Latinh trong bối cảnh các chuyến bay đến Hoa Kỳ hồi sinh.
Sự bùng nổ của Mỹ phụ thuộc vào nguồn tiền mà những người di cư từ Mỹ gửi về cho gia đình ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ Latinh. Tại Mexico, lượng kiều hối năm ngoái bằng khoảng 3,8% GDP, tăng từ mức khoảng 2,9% vào năm 2019, vốn đã cao, theo ngân hàng trung ương của Mexico.Alex Homes, Giám đốc điều hành của công ty chuyển tiền MoneyGram International Inc., cho biết: “Có một mối tương quan rất lớn giữa những tấm séc cứu trợ và tiền đi thẳng ra khỏi đất nước”.
Javier López, sinh viên Honduras cho biết 800 đô la mà ba anh chị của anh gửi cho mỗi tháng từ Mỹ được dùng để mua đồ ăn cho gia đình và trang trải học phí tiếng Anh của mình ở San Pedro Sula. Chàng trai 22 tuổi cho biết anh sống trong một ngôi nhà được xây bằng tiền mà chị gái anh kiếm được ở nước ngoài.
Ông López nói: “Nếu chị gái tôi không di cư, sẽ khó có nhà vì tiền công họ trả ở đây chỉ đủ mua thức ăn”.
Các chính sách tiền tệ nới lỏng của Fed đã tạo điều kiện cho các chính phủ, ngay cả các thị trường mới nổi mắc nợ nhiều như Brazil, các ngân hàng trung ương trên toàn thế giới mở cửa xả lũ cho nền kinh tế của chính họ thông qua việc cho vay giá rẻ và chi tiêu công xông xênh.
Jonathan Heath, Phó thống đốc ngân hàng trung ương Mexico nói rằng trong một cuộc phỏng vấn vào ngày 31 tháng 5 “Việc Cục Dự trữ Liên bang sẽ cố gắng giữ lãi suất của mình trong hai năm đã cho chúng tôi rất nhiều cơ hội để thở. Trong hoàn cảnh hiện tại, chúng tôi chắc chắn sẽ tăng lãi suất”.
Tuy nhiên, quy mô từ sự phục hồi của Mỹ đang gây ra căng thẳng trên khắp thế giới. Trong khi Trung Quốc thúc đẩy làm tăng giá nguyên liệu thô đang diễn ra, thì Mỹ đang đẩy giá đối với một loạt các mặt hàng tiêu dùng.
Nhu cầu cao đối với các thiết bị điện tử như máy tính xách tay, điện thoại di động và máy thu hình trong thời kỳ đại dịch đã tạo ra tình trạng khan hiếm, đẩy giá kim loại sản xuất lên sát mức kỷ lục. Dẫn đến việc giảm nhu cầu toàn cầu cho mặt hàng này và nó khiến các hộ gia đình ở EU, các nền kinh tế lớn của Mỹ Latinh như Mexico và Brazil yếu đi.
Một số công ty đóng tàu đang yêu cầu người mua trả thêm tiền để giao tàu vì giá thép tăng. Giám đốc bán hàng Vanessa McDonald cho biết Wildlife World, nhà cung cấp các dòng sản phẩm cho động vật hoang dã phải chứng kiến chi phí vận chuyển hàng hóa của công ty tăng gần sáu lần.
Bà McDonald nói: “Những khoản này trở thành khoản phụ phí. Mọi người đều chấp nhận mức tăng giá đáng kể này. Điều này chưa từng có trong tiền lệ". Công ty họ đã tăng 90% doanh số bán hàng tại Mỹ trong năm ngoái.
Hàng trăm nghìn nhà máy của Trung Quốc đang cảm nhận được chi phí nguyên vật liệu tăng nhanh. Giá dầu, quặng sắt và kim loại tăng vọt đã giúp đẩy giá nhập khẩu tại nhà máy của Trung Quốc trong tháng 5 tăng 9% so với một năm trước đó, mức tăng lớn nhất trong gần 13 năm.
Giá cả tăng cao đang là vấn đề đau đầu đối với các nhà hoạch định chính sách tại các thị trường mới nổi như Brazil và Nga, nơi lạm phát đã đạt mức cao nhất trong nhiều năm. Cả hai quốc gia đã tăng lãi suất chuẩn ba lần trong năm nay để hỗ trợ đồng tiền của họ, đẩy chi phí đi vay lên cao mặc dù các quốc gia vẫn đang vật lộn với đại dịch. Ngay cả một đợt lạm phát ngắn ngủi cũng có thể khiến các nhà đầu tư lo lắng và buộc tiền tệ xuống giá, làm ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của các công ty và hộ gia đình đi vay bằng đô la hoặc euros.
Cùng với đó là số nhà xây mới cũng tăng cao
Ngân hàng trung ương Brazil đã tăng lãi suất lên 4,25% vào ngày 16 tháng 6, vài giờ sau khi các quan chức Fed báo hiệu rằng họ dự kiến sẽ tăng lãi suất sớm hơn dự đoán. Tám ngày sau, ngân hàng trung ương của Mexico cho biết họ cũng sẽ tăng thành 4,25%, lưu ý rằng đồng peso đang giảm giá và lạm phát gia tăng ở Mỹ.
Ông Heath nói: “Chúng tôi không thể tăng hoặc giảm [tỷ giá] mà không tính đến những gì Fed đang làm,” vì dòng vốn và tỷ giá hối đoái.
Ông nói: “Nó đang làm cho cuộc sống của chúng tôi phức tạp hơn một chút tại ngân hàng trung ương vì chúng tôi chịu trách nhiệm về lạm phát và hiện tại nó đang tăng lên”. "Tôi chắc chắn rằng sự cân bằng này khiến Mexico đang được hưởng lợi từ sự phục hồi mạnh mẽ của Mỹ”.
Tại Canada, sự tăng trưởng mạnh mẽ của Hoa Kỳ đang thúc đẩy xuất khẩu, làm tăng giá dầu và giúp đẩy giá trị của đồng đô la Canada lên mức cao nhất so với đô la Mỹ trong 6 năm nay. Lạm phát của Canada đã tăng lên 3,6%, mức cao nhất trong 10 năm, gây áp lực buộc ngân hàng trung ương của Canada phải rút lại các biện pháp kích thích bất thường của mình bất chấp làn sóng nhiễm Covid-19 thứ ba được cho là sẽ ảnh hưởng đến tăng trưởng. Ngân hàng trung ương đã làm chậm chương trình mua tài sản của mình vào tháng 4, trở thành ngân hàng trung ương G7 đầu tiên làm như vậy.
Trong khi đó, Ngân hàng Trung ương châu Âu đã tăng cường mua trái phiếu vào tháng 3 trong nỗ lực làm lợi suất trái phiếu chính phủ giảm xuống, đổ lỗi cho sự gia tăng chi phí đi vay trên toàn thế giới một phần xuất phát từ “kỳ vọng lạm phát và kỳ vọng tăng trưởng GDP ở Hoa Kỳ. ” Các biện pháp kích cầu của ECB giúp giảm chi phí đi vay trong khi giữ tỷ giá hối đoái của đồng euro so với đồng đô la, rất quan trọng đối với một khối phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu.
Hai tháng sau, ECB cảnh báo về rủi ro điều chỉnh gia tăng trên thị trường bất động sản dân cư khu vực đồng euro trong bối cảnh bị định giá quá cao.