Tham vọng 'hoá rồng', tăng trưởng GDP hai con số và trợ lực từ câu chuyện nâng hạng
Ngay khi Chính phủ đặt mục tiêu tăng trưởng kinh tế 8% trở lên trong năm 2025 và phấn đấu hai con số trong ít nhất 5 năm tiếp theo, nhiều lo ngại rằng: "Liệu mục tiêu này có quá tham vọng trong bối cảnh kinh tế hiện nay?"
Trên thế giới, những bất ổn đang ngày một gia tăng do xung đột địa chính trị leo thang cùng với việc ông Trump - tân Tổng thống Mỹ khơi mào cuộc chiến tranh thương mại với nhiều quốc gia đã và sẽ gây tác động không nhỏ đến Việt Nam.
Không chỉ vậy, Việt Nam còn là một nền kinh tế phụ thuộc rất nhiều vào Mỹ bởi đây là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, chiếm tới gần 30% kim ngạch xuất khẩu.
Tuy nhiên, "không gì là không thể", ngay ngày đầu của tháng 3, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã có Chỉ thị 05 về các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm, đột phá thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công, bảo đảm mục tiêu tăng trưởng cả nước năm 2025 đạt 8% trở lên.
Chỉ thị này đã vạch ra hàng loạt định hướng quan trọng như: Ban hành các cơ chế, chính sách, quy định mới, đột phá để giải phóng ngay nguồn lực của nền kinh tế, lấy đầu tư công dẫn dắt đầu tư tư, kích hoạt và thu hút mọi nguồn lực xã hội.
Đặc biệt là cần đảm bảo nguồn vốn bởi đây là "mạch máu"của nền kinh tế. Theo ước tính, để đạt được mục tiêu này, theo ước tính Việt Nam cần nguồn vốn hơn 4 triệu tỷ đồng, tương đương khoảng 160 tỷ USD. Trong các năm tiếp theo, Việt Nam phải duy trì tăng trưởng cao, bền vững liên tục từ nay tới năm 2045 nếu muốn thoát bẫy thu nhập trung bình.
Ba yếu tố để nền kinh tế "hoá rồng"
Bàn về câu chuyện mục tiêu tăng trưởng 8% có khả thi hay không, Chuyên gia kinh tế Nguyễn Tú Anh cho rằng: "Không thể nói mục tiêu tăng trưởng GDP 8%, thậm chí là trên 10% là bất khả thi bởi trong lịch sử, nhiều quốc gia đã đạt được con số này, thậm chí Trung Quốc đã từng đạt được tốc độ tăng trưởng hai con số trong suốt 20 năm".
Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu tăng trưởng GDP trên 8% và tiến tới là 10% trong một thời gian dài, Việt Nam cần một trợ lực thật mạnh mẽ. Trên thế giới đã từng có nhiều nền kinh tế từng duy trì được tốc độ tăng trưởng 10% trong suốt 10 – 15 năm và trở thành quốc gia phát triển như Nhật Bản hay Hàn Quốc.

TS.Nguyễn Tú Anh,Chuyên gia kinh tế - tài chính. (Ảnh: VNB).
"Hoặc có trường hợp lại tăng trưởng theo một cách không thực chất. Như trường hợp của Ireland, họ cũng có một thời kỳ tăng trưởng nhanh, mạnh và thậm chí có năm tăng trưởng 25% do một số tập đoàn Mỹ dịch chuyển nguồn thu của họ về Ireland để tránh thuế, làm cho GDP tăng vọt", ông Tú Anh cho hay.
Ireland đã đưa ra mức thuế doanh nghiệp thấp để thu hút các công ty nước ngoài kể từ những năm 1950. Chiến lược này đã mang lại khiến lượng doanh nghiệp nước ngoài đổ về làm tăng trưởng GDP một cách nhanh chóng.
Tuy nhiên, loại trừ những chính sách biến mình thành "thiên đường thuế" như Ireland, có thể thấy rằng để tăng trưởng hai con số dựa vào năng lực phát triển một cách bình thường thì sẽ là vô cùng khó khăn và rất ít quốc gia có thể đạt được.

Tăng trưởng GDP của Việt Nam giai đoạn 2011 đến nay. (Nguồn: Hạ An tổng hợp từ Cục Thống kê).
Tính đến nay, những quốc gia đạt được điều này chủ yếu là các nền kinh tế Đông Á như: Hàn Quốc, Singapore hay Đài Loan, HongKong được ví như các “con rồng” châu Á với giai đoạn phát triển thần tốc từ 1960 - 1990 và các cường quốc như Nhật Bản, Trung Quốc. Những quốc gia được đánh giá có tiềm năng trở thành các con hổ, con rồng châu Á tiếp theo bao Thái Lan, Malaysia hay Indonesia thì đến nay vẫn chưa thể "hoá rồng".
Vậy Việt Nam có thể tăng trưởng cao liên tục trong các năm tới hay không?
Trả lời cho câu hỏi này, ông Tú Anh cho rằng Việt Nam có thể nhưng phải phụ thuộc vào nhiều yếu tố.
Đầu tiên là để tăng trưởng hai con số cần có một luồng vốn đầu tư đều đặn và đủ lớn liên tục trong nhiều năm. Hiện nay, tăng trưởng nền kinh tế của Việt Nam vẫn phụ thuộc rất nhiều vào vốn nên nếu không có một nguồn vốn đầu tư đều đặn và đủ lớn thì sẽ không thể liên tục có tăng trưởng trên hai con số.
Thứ hai là những đổi mới về công nghệ và nhân lực để tăng năng suất lao động. Tuy nhiên, những đổi mới này cũng không thể nhanh chóng, “một sớm một chiều” đã thành công mà cần một quá trình để chuyển đổi.
Cơ hội của Việt Nam là có nếu lượng vốn đầu tư nước ngoài đủ lớn và các doanh nghiệp có công nghệ cao của cả Mỹ, EU và Trung Quốc,.. các nước phát triển đổ vào Việt Nam thì có thể tạo ra cú hích chuyển dịch năng lực công nghệ cho Việt Nam, chuyên gia phân tích.
Yếu tố cuối cùng là nếu để tăng trưởng hai con số là năng suất lao động phải tăng trưởng tương tự. Hiện tại, năng suất lao động của Việt Nam mới chỉ tăng trưởng 6% và để đẩy nhanh tăng trưởng của năng suất lao động thì ngoài chuyện nâng cao năng lực công nghệ và kỹ năng của người lao động còn đòi hỏi thời gian làm việc dài hơn.
"Bởi lẽ, yếu tố dư thừa lao động gần như đã cạn kiệt khi chúng ta không thể hút lao động từ khu vực nông nghiệp ra nữa, vậy nên tăng hiệu quả và thời gian làm việc là yếu tố cần thiết", chuyên gia nói.
"Trợ lực" từ nâng hạng thị trường
Trên thực tế, muốn tăng trưởng cao liên tục trong nhiều năm, yếu tố đầu tiên là cần nguồn vốn lớn và ổn định. Trong đó, nguồn vốn từ bên trong đã gần hết dư địa, năm 2025, tín dụng tăng trưởng 15,08% tương ứng ngành Ngân hàng cung ứng thêm vào nền kinh tế khoảng 2,1 triệu tỷ đồng, với tổng dư nợ là 15,5 triệu tỷ đồng.
Từ lâu dư nợ tín dụng/GDP đã đạt trên 120%, ở mức cao so với thế giới cho thấy nền kinh tế Việt Nam rất phụ thuộc chủ yếu vào hệ thống ngân hàng. Với tốc độ tăng trưởng tín dụng năm 2025 dự kiến 16%, tương đương 2,5 triệu tỷ đồng bơm vào nền kinh tế, sức hấp thụ của doanh nghiệp vẫn là một câu hỏi lớn.
Ngược lại, nguồn vốn bên ngoài vẫn còn rất nhiều dư địa để phát triển. Nếu nâng hạng được thị trường chứng khoán và nâng hạng xếp hạng tín nhiệm quốc gia, Việt Nam sẽ thu hút được nguồn vốn lớn và dài hạn từ bên ngoài.

Mức đầu tư/GDP Việt Nam so với một số nền kinh tế trên thế giới. (Nguồn: S&P Global Ratings).
Theo ông Louis Kuijs – Kinh Tế Trưởng, Khu Vực Châu Á - Thái Bình Dương, S&P Global Ratings, Việt Nam đã trải qua một chặng đường phát triển ấn tượng trong nhiều thập kỷ qua. Bất chấp những biến động toàn cầu, nền kinh tế vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng trung bình 6,2% trong 10 năm qua.
Tiếp nối xu hướng phát triển xuất khẩu của các nền kinh tế Đông Á, Việt Nam đã tận dụng dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) như một đòn bẩy quan trọng – tương tự như cách Trung Quốc làm trong giai đoạn hậu cải cách năm 1978.
"Việt Nam đang hấp dẫn nhờ chi phí sản xuất thấp, nhân lực dồi dào và vị trí chiến lược trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Chính phủ Việt Nam cũng rất quyết liệt để thay đổi và thu hút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)", ông Kang Moon Kyung, CEO Công ty Chứng khoán Mirae Asset Việt Nam cũng đánh giá tương tự trên talkshow Phố Tài chính ngày 2/3.
Theo ông, Việt Nam vẫn duy trì sức hút mạnh mẽ với khu vực FDI trong năm 2024, khi giải ngân vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 25 tỷ USD và tháng 1/2025 cũng đạt 1,5 tỷ USD.
Tuy nhiên, đầu tư gián tiếp FIII lại có dấu hiệu rút ròng từ tháng 4/2025, cho đến đầu năm 2025 do chênh lệch lãi suất giữa Việt Nam và Mỹ nới rộng, đồng thời áp lực mất giá của đồng VND tăng lên. Do đó, khối ngoại vẫn sẽ thận trọng cho đến khi mức chênh lệch lãi suất thu hẹp hơn nữa.

Ông Kang Moon Kyung, CEO Công ty Chứng khoán Mirae Asset Việt Nam (Ảnh: HA).
"Hiện nay các nhà đầu tư toàn cầu đang chạy theo các chính sách mới của ông Trump và đồng USD có thể vẫn duy trì sức mạnh do chiến lược America First. Chủ nghĩa bảo hộ gia tăng có thể dẫn đến áp lực lạm phát gia tăng và làm thay đổi hành động của Fed, lộ trình cắt giảm lãi suất của Fed có thể ít hơn dự báo", ôngKang Moon Kyung phân tích.
Dù vậy, nếu Việt Nam có thể nâng hạng thị trường chứng khoán trong năm nay thì sẽ là tiền đề quan trọng để thu hút dòng vốn ngoại. Cơ hội được nâng hạng lên thị trường mới nổi có thể giúp định giá lại thị trường chứng khoán Việt Nam nhờ dòng vốn mới từ các quỹ và các ETF theo dõi chỉ số này.
Hơn nữa, thị trường chứng khoán Việt Nam đang hấp dẫn hơn so với nhiều thị trường chứng khoán trên thế giới nhờ những động lực rõ ràng từ nền kinh tế, gồm: Mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nỗ lực nâng hạng thị trường trong năm nay bằng cách thực hiện các cải cách, cải thiện khuôn khổ pháp lý, cơ sở hạ tầng,cụ thể là hệ thống KRX và các tiêu chuẩn quản trị doanh nghiệp.
Dự báo FTSE Russell có thể nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam lên thị trường mới nổi vào tháng 9/2025 qua đó giúp Việt Nam thu hút ròng vốn đầu tư kỳ vọng khoảng 6 tỷ USD. Còn với việc nâng hạng lên thị trường mới nổi của MSCI vào năm 2026, các sửa đổi đối với Nghị định 155 hay việc cho ra các văn bản hướng dẫn sửa đổi vừa được phê duyệt sẽ là những yếu tố chính mà chúng ta cần quan tâm trong thời gian tới, CEO Mirae Asset Việt Nam cho hay.
Ngoài ra, Chính phủ Việt Nam đang tích cực phát triển thị trường tài chính, bao gồm tăng quy mô vốn hoá thị trường chứng khoán lên 100% GDP và quy mô thị trường trái phiếu doanh nghiệp lên 20% GDP.
Bên cạnh đó, xếp hạng tín nhiệm quốc gia của Việt Nam dựa trên ba trụ cột chính: tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ, tỷ lệ nợ chính phủ ở mức trung bình và rủi ro nợ vay nước ngoài ở mức thấp. Các chính sách ổn định và chiến lược thương mại cởi mở giúp Việt Nam duy trì dòng vốn đầu tư dồi dào từ các tập đoàn đa quốc gia, tạo nền móng vững chắc cho sự phát triển kinh tế nhanh chóng.
"Nếu tiếp tục cải cách thể chế, nâng cao hiệu quả chính sách tài khóa và đẩy mạnh thương mại – đầu tư, Việt Nam có cơ hội cải thiện đáng kể xếp hạng tín nhiệm quốc gia trong những năm tới", chuyên gia từ S&P Global Ratings khuyến nghị.
Nếu thăng hạng xếp hạng tín nhiệm quốc gia, đây cũng sẽ là một trợ lực quan trọng cho nền kinh tế, nhất là thị trường vốn khi các doanh nghiệp được tiếp cận với nguồn vốn rẻ hơn, qua đó có cơ hội mở rộng thị trường và tăng trưởng mạnh mẽ.