Tín dụng tăng cao nhất trong nhiều năm: Động lực tăng trưởng và áp lực lạm phát

Thúy Hà 20:08 | 09/09/2025 Doanh Nhân Việt Nam trên Doanh Nhân Việt Nam trên
Chia sẻ
Tín dụng 8 tháng qua tăng trưởng mạnh mẽ, thúc đẩy kinh tế phục hồi nhưng cũng đặt ra áp lực lạm phát và ổn định lãi suất trong trung và dài hạn.
 

Tăng trưởng tín dụng những tháng qua đã trở thành điểm sáng của nền kinh tế, góp phần thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phục hồi mạnh mẽ sau giai đoạn trầm lắng. Tuy nhiên, đằng sau con số ấn tượng này là nỗi lo về áp lực lạm phát và sự ổn định của mặt bằng lãi suất, khi dòng vốn tín dụng tăng nhanh có thể tạo ra những hệ quả dài hạn cho nền kinh tế.

Tín dụng cao nhất nhiều năm

Ông Phạm Thanh Hà, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cho biết tính đến cuối tháng 8/2025, dư nợ tín dụng toàn hệ thống đạt khoảng 17,146 triệu tỷ đồng, tăng 11,82% so với cuối năm 2024. Đây là mức cao nhất kể từ năm 2018 đến nay.

Các chương trình tín dụng đặc thù tiếp tục được triển khai hiệu quả như cho vay nhà ở xã hội, công nhân, cải tạo chung cư cũ, đầu tư hạ tầng, công nghệ số, cho lĩnh vực nông, lâm, thủy sản; cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa; tín dụng xuất khẩu; công nghiệp hỗ trợ…

Theo Phó Thống đốc Phạm Thanh Hà, để thực hiện nhiệm vụ hỗ trợ tăng trưởng kinh tế cao trong năm 2025, Ngân hàng Nhà nước đã kiểm soát mặt bằng lãi suất ở mức hợp lý, tạo điều kiện để người dân và doanh nghiệp tiếp cận tín dụng.

Theo đó, đến cuối tháng 8/2025, mặt bằng lãi suất cho vay tiếp tục xu hướng giảm. Cụ thể, lãi suất cho vay bình quân giảm khoảng 0,6 điểm phần trăm so với cuối năm 2024.

Lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước cho biết mức tăng trưởng tín dụng này phản ánh sự phục hồi mạnh mẽ của nền kinh tế, nhất là ở các lĩnh vực sản xuất, xuất khẩu, tiêu dùng. Hệ thống ngân hàng đã tập trung ưu tiên vốn cho khu vực doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, nông nghiệp, công nghiệp chế biến chế tạo và xuất khẩu.

Sự bứt tốc tín dụng cũng cho thấy chính sách nới lỏng tiền tệ thời gian qua đã phát huy tác dụng. Việc Ngân hàng Nhà nước liên tiếp giảm lãi suất điều hành trong giai đoạn 2023-2024 đồng thời chỉ đạo các ngân hàng thương mại hạ lãi suất cho vay, đã giúp dòng vốn đến với doanh nghiệp thuận lợi hơn.

Ông Nguyễn Quốc Hùng - Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam cho biết: “Nhiều doanh nghiệp phản ánh lãi suất vay hiện nay phổ biến chỉ từ 6%-7%/năm, thấp hơn nhiều so với giai đoạn 2022-2023, qua đó tạo điều kiện để họ mở rộng quy mô sản xuất, đón đầu các cơ hội từ thị trường xuất khẩu.”

Mới đây Thủ tướng Chính phủ cũng yêu cầu Ngân hàng Nhà nước xây dựng lộ trình và thí điểm việc gỡ bỏ biện pháp giao chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng. Từ năm 2026 các ngân hàng sẽ không bị giới hạn mức trần tăng trưởng tín dụng, mà sẽ được cấp vốn dựa trên năng lực và sức khỏe tài chính của mình.

Các chuyên gia cho rằng biện pháp này được kỳ vọng là sẽ giúp tăng thêm nguồn cung vốn ra thị trường nhưng song song với việc bỏ hạn mức cho vay thì bản thân các ngân hàng cũng phải kiểm soát chất lượng tín dụng của mình.

Thế là những cái thanh phôi nhôm được nhập khẩu hoàn toàn từ nước ngoài và những cái thanh thu nhôm này thì chiếm tới gần một nửa nguyên liệu đầu vào sản xuất của doanh nghiệp. Vì thế mà doanh nghiệp luôn cần một cái lượng vốn đủ lớn để có thể chủ động nhập khẩu nguyên liệu phục vụ cho hoạt động sản xuất.

Trong bối cảnh áp lực tỷ giá thường tăng cao vào cuối năm, nhu cầu vốn cũng tăng theo, từng có trường hợp doanh nghiệp gặp khó khi ngân hàng hết hạn mức tín dụng. Nếu gỡ bỏ công cụ hạn mức, doanh nghiệp kỳ vọng để tiếp cận vốn cuối năm sẽ thuận lợi hơn.

Ông Nguyễn Văn Mười - Tổng Giám đốc Công ty Nhôm Quang Minh cho biết: “Việc gỡ bỏ tín dụng sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp nhiều hơn khi chính sách mới thay đổi và áp dụng ngay thì có những ngân hàng đồng hành cùng với doanh nghiệp, sẽ bớt gánh nặng cho doanh nghiệp nhiều hơn.”

Cơ hội tiếp cận vốn của doanh nghiệp sẽ rộng cửa hơn khi ngân hàng được chủ động xây dựng kế hoạch tăng trưởng tín dụng. Tuy nhiên điều này đòi hỏi các ngân hàng phải tăng trách nhiệm trong việc tự xác định hạn mức an toàn của mình. Còn phía cơ quan điều hành cần phải có các công cụ quản lý, tránh tình trạng ngừng vốn đổ vào các tài sản rủi ro thay vì chảy vào sản xuất kinh doanh.

Ngành ngân hàng đặt mục tiêu tăng trưởng tín dụng khoảng 16% trong năm nay, đồng nghĩa với việc dư nợ tăng thêm khoảng 2,5 triệu tỷ đồng. (Ảnh: Vietnam+)

Ông Phạm Thế Anh - Trưởng Khoa Kinh tế, Đại học Kinh tế Quốc dân: “Chúng ta có thể có những chính sách phân biệt lãi suất đối với các lĩnh vực khác nhau như cho vay xuất kinh doanh thì hưởng mức lãi suất khác và cho vay liên quan đến đầu cơ tài sản thì phải chịu một cái mức lãi suất khác.”

Trong khi đó, bà Phạm Thị Hoàng Anh – Phó Giám đốc Học viện Ngân hàng cũng cho rằng có thể quy định tỷ lệ cho vay trên tài sản đảm bảo có nghĩa là cùng một giá trị của mua nhà thì vay lần thứ nhất có thể được vay với số tiền nhiều hơn, nhưng nếu vay để mua nhà lần thứ hai thì sẽ được vay một số tiền ít hơn, tránh việc mở rộng mà tăng trưởng tín dụng quá mức và đồng thời nó cũng sẽ tránh được những cái sự bong bóng không đáng có ở trên các thị trường tài sản.

Cần tránh nguy cơ lạm phát trung và dài hạn

Ngoài áp lực về lãi suất, một rủi ro lớn khác chính là lạm phát. Cung tiền gia tăng nhanh thường tạo sức ép đối với giá cả hàng hóa và dịch vụ.

Một chuyên gia nhận định, hiện tại, lạm phát cơ bản vẫn được kiểm soát dưới 3,5%. Nhưng với tín dụng tăng như hiện nay có thể khiến áp lực lạm phát gia tăng từ năm 2026. Đặc biệt, nếu giá dầu, lương thực thế giới biến động mạnh, lạm phát tại Việt Nam có thể vượt mục tiêu 4%-4,5%.

Ngân hàng Nhà nước cũng cảnh báo, dư nợ tín dụng đổ vào bất động sản và tiêu dùng có thể tạo ra rủi ro bong bóng giá. Dù hiện tại, cơ cấu tín dụng vẫn chủ yếu tập trung vào sản xuất kinh doanh (chiếm trên 45%), song dòng vốn vào lĩnh vực bất động sản đã tăng khoảng 13% so với cuối 2024. Đây là yếu tố cần được giám sát chặt chẽ.

Tại phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 8 cuối tuần qua, ông Đoàn Thái Sơn - Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cũng bày tỏ lo ngại về rủi ro lạm phát khi tăng trưởng tín dụng toàn nền kinh tế đã vượt 11%.

Theo phân tích của ông Đoàn Thái Sơn, áp lực lạm phát xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Trên bình diện quốc tế, giá năng lượng và nguyên vật liệu đầu vào tiếp tục neo ở mức cao, trong khi diễn biến khó lường của thị trường toàn cầu khiến chi phí nhập khẩu gia tăng mạnh. Trong nước, giá thuê nhà và chi phí ăn uống ngoài gia đình tăng nhanh, cùng với việc điều chỉnh một số mặt hàng do Nhà nước quản lý, đã khiến chỉ số giá tiêu dùng chịu thêm sức ép. Ngoài ra, biến động giá vàng cũng góp phần tạo ra tâm lý bất ổn trên thị trường.

Phó Thống đốc Đoàn Thái Sơn nhấn mạnh: “Với xu hướng hiện tại, Ngân hàng Nhà nước thống nhất với Bộ Tài chính về việc cần theo dõi sát sao và điều hành chính sách tiền tệ một cách linh hoạt. Khi xuất hiện tín hiệu mới từ thị trường, cần chủ động đưa ra giải pháp sớm để ‘đi trước, đón đầu.”

Ông Đoàn Thái Sơn khuyến cáo nếu để lạm phát vượt ngưỡng kiểm soát, chi phí để ổn định lại nền kinh tế sẽ rất lớn.

Lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước cũng bày tỏ lo ngại về rủi ro lạm phát khi tăng trưởng tín dụng toàn nền kinh tế đã vượt 11%. (Ảnh: Vietnam+)

Phó Thống đốc Đoàn Thái Sơn cũng lưu ý đà tăng tín dụng nhanh dẫn đến hai hệ quả chính là các ngân hàng phải tăng huy động vốn, gây áp lực tăng lãi suất huy động và kéo theo lãi suất cho vay và cung tiền gia tăng nhanh có thể gây áp lực lạm phát trong trung và dài hạn.

Lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước cho biết trong những tháng cuối năm, Ngân hàng Nhà nước sẽ điều hành chính sách tiền tệ một cách linh hoạt và đồng bộ, sử dụng các công cụ và giải pháp phù hợp về thời điểm và liều lượng. Mục tiêu là đảm bảo sự hài hòa giữa ổn định tỷ giá và mặt bằng lãi suất, qua đó tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất-kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô và kiểm soát lạm phát theo mục tiêu đề ra.