Vì sao cho thuê tài chính chỉ chiếm 0,28% tổng tín dụng sau hơn 20 năm phát triển?

Tọa đàm chính sách về Chính sách về hoạt động cho thuê tài chính tại Việt Nam. (Ảnh: Nguyễn Ngọc)
Sáng ngày 13/8 tại Hà Nội, Hiệp hội Cho thuê tài chính Việt Nam phối hợp với các bên liên quan tổ chức Tọa đàm chính sách về Chính sách về hoạt động cho thuê tài chính tại Việt Nam.
Theo ông Nguyễn Thiều Sơn, Tổng giám đốc Công ty Cho thuê tài chính TNHH BIDV SuMi TRUST, cho thuê tài chính là một hình thức tín dụng trung - dài hạn đặc thù, cho phép doanh nghiệp tiếp cận tài sản sản xuất như máy móc, thiết bị mà không cần phải đầu tư toàn bộ vốn ban đầu hay thế chấp tài sản. Các công ty cho thuê tài chính đóng vai trò là tổ chức tài chính phi ngân hàng, thực hiện huy động nguồn vốn và cung cấp dịch vụ cho thuê tài chính cho doanh nghiệp.
Tại Việt Nam, dù đã xuất hiện hơn 20 năm, nhưng đến nay, hoạt động này mới bắt đầu có những bước phát triển rõ rệt. Đặc biệt, trong giai đoạn từ 5 năm trở lại đây, khi các công ty cho thuê tài chính có sự đầu tư mạnh mẽ về nguồn lực, công nghệ và mô hình vận hành hiện đại.
Đồng thời nhận được nhiều những chính sách mới, cởi mở hơn từ cơ quan quản lý, như: Luật các tổ chức tín dụng năm 2024 đã có những điều chỉnh liên quan đến các tổ chức tín dụng phi ngân hàng và hoạt động cho thuê tài chính; Thông tư 26/2024 của NHNN đã dỡ bỏ hạn mức tăng trưởng tín dụng đối với các công ty cho thuê tài chính.
Tuy nhiên, ông Sơn cho rằng sư phát triển và quy mô dư nợ cho thuê tài chính còn khiêm tốn chưa tương xứng với tiềm năng.
Cụ thể, tính đến 30/6, cả nước có 10 công ty cho thuê tài chính được cấp phép, trong đó 8 công ty đang hoạt động thực tế, với tổng dư nợ cho thuê đạt khoảng 47.000 tỷ đồng chiếm 0,28% tổng dư nợ tín dụng toàn hệ thống ngân hàng - một tỷ lệ còn rất khiêm tốn.
Cùng với đó, tỷ lệ thâm nhập vào doanh nghiệp đối với loại hình dịch vụ cho thuê tài chính ở Việt Nam là quá nhỏ bé, với số lượng hợp đồng cho thuê ước tình 15.000 hợp đồng từ 8 công ty.
Giả định rằng mỗi khách hàng là một hợp đồng thì tỷ lệ này trên gần 1 triệu doanh nghiệp mới chỉ đạt 1,5%, nếu tính thêm cả 5,2 triệu hộ kinh doanh có nhu cầu thuê tài chính còn số này là rất nhỏ bé so tiềm năng của thị trường.
Khung pháp lý chưa phù hợp
Về nguyên nhân, ông Sơn chỉ ra khung pháp lý cho thuê tài chính tại Việt Nam vẫn thiếu đồng bộ và chưa phù hợp với đặc thù hoạt động. Các công ty cho thuê tài chính hiện bị áp nhiều quy định giống ngân hàng thương mại như tỷ lệ an toàn vốn, giới hạn cấp tín dụng, tỷ lệ nợ xấu… dù không nhận tiền gửi từ dân cư.
Khó khăn về huy động vốn cũng là rào cản lớn với các công ty cho thuê tài chính. Hiện quy định chỉ cho phép giao dịch vay hoặc nhận tiền gửi từ các tổ chức tín dụng với kỳ hạn tối đa 1 năm, đồng thời không được phát hành trái phiếu ra công chúng, đã hạn chế đáng kể khả năng huy động nguồn lực trung và dài hạn của doanh nghiệp.
"Về sản phẩm, nhiều công ty cho thuê tài chính vẫn “ngân hàng hóa” cách vận hành, thiếu gói sản phẩm trọn gói kết hợp bảo trì, bảo hiểm, mua lại tài sản… khiến sức cạnh tranh với ngân hàng thương mại chưa cao", ông Sơn nêu rõ.
Còn theo ông Phạm Xuân Hòe, Tổng Thư ký Hiệp hội Cho thuê tài chính Việt Nam, trong bối cảnh chuyển đổi số, vẫn tồn tại nhiều bất cập từ phía cơ quan quản lý khiến doanh nghiệp tốn thời gian, chi phí và bỏ lỡ cơ hội kinh doanh.
Thứ nhất, để thuận tiện trong lập trình và vận hành phần mềm xử lý thủ tục hành chính, một số cơ quan quản lý đã đơn giản hóa hoặc gộp bước xử lý mà bỏ qua đặc thù của từng ngành nghề. Điều này vô tình đẩy khó khăn sang phía doanh nghiệp và người dân, làm tăng thời gian và chi phí tuân thủ.
Ví dụ, hiện các công ty cho thuê tài chính chưa được đăng ký xe theo biển số tại địa phương nơi khách hàng sử dụng, dù quyền sở hữu tài sản của công dân và tổ chức đã được Hiến pháp công nhận. Trên thực tế, chỉ cần bổ sung một trường dữ liệu trong phần mềm quản lý là có thể giải quyết, không phát sinh thêm chi phí đáng kể.
Thứ hai, việc liên thông và cập nhật dữ liệu giữa các bộ, ngành còn hạn chế. Doanh nghiệp vẫn phải chờ đợi, nộp hồ sơ giấy, dẫn đến mất cơ hội kinh doanh. Trường hợp hủy phù hiệu xe vận tải là một ví dụ điển hình khi phương tiện phải nằm chờ, không thể hoạt động vì thiếu giấy tờ, gây thiệt hại doanh thu.
Thứ ba, vẫn có tình trạng chậm trễ trong việc tiếp thu, giải trình kiến nghị của doanh nghiệp và hiệp hội. Luật và các nghị định quy định thời hạn trả lời là 15 ngày, nhưng thực tế nhiều trường hợp bị kéo dài hơn, thậm chí “bỏ quên”.
"Hiệp hội đề nghị Chính phủ có cơ chế đo lường, đánh giá, và xử lý trách nhiệm của các bộ, ngành, địa phương trong giải quyết kiến nghị", ông Hòe cho hay.
Cần mở rộng hành lang pháp lý
Tuy nhiên, ông Hòe chia sẻ sự lạc quan khi là lần đầu tiên, Nghị quyết 68của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân, mở ra cơ hội chưa từng có đối với các tổ chức cho vay không nhận tiền gửi, trong đó có cho thuê tài chính. Đây được xem là cơ hội vàng để cho thuê tài chính trở thành một trụ cột mới trong cung ứng vốn trung dài hạn cho doanh nghiệp vừa và nhỏ và hộ kinh doanh.
Để có thể “thức tỉnh để phát triển” kênh cho thuê tài chính ở Việt Nam, ông Hòe đề xuất cần đơn giản hóa điều kiện cấp phép để hình thành nhiều công ty cho thuê tài chính và công ty tài chính tổng hợp, huy động tối đa nguồn lực từ các tập đoàn trong nước và FDI.
Xây dựng Luật cho thuê tài chính hoặc Luật các tổ chức cho vay không nhận tiền gửi, có chương riêng cho cho thuê tài chính.
Nâng cấp phần mềm xử lý thủ tục hành chính nhằm bảo đảm liên thông dữ liệu giữa các bộ, ngành, rút ngắn thời gian xử lý, áp dụng cơ chế chấm điểm, KPI và minh bạch khen thưởng – kỷ luật công chức.
Phát triển và làm sạch cơ sở dữ liệu số quốc gia, tạo nền tảng cho kinh tế số và cho phép CTTC mở rộng sang các loại tài sản vô hình.
“Với hành lang pháp lý thông thoáng và hạ tầng số hiện đại, cho thuê tài chính sẽ có cơ hội trở thành kênh vốn trung, dài hạn quan trọng, hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới công nghệ và nâng cao năng lực cạnh tranh", ông Hòe nhấn mạnh.
Về phía công ty cho thuê tài chính, ông Sơn kiến nghị cần sớm xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý riêng cho hoạt động cho thuê tài chính, tách bạch khỏi các quy định dành cho ngân hàng thương mại, phản ánh đúng bản chất và đặc thù của loại hình này.
Đồng thời, cần mở rộng hành lang pháp lý cho phép các công ty cho thuê tài chính tiếp cận đa dạng nguồn vốn, áp dụng chính sách ưu đãi về thuế, cũng như tạo điều kiện tiếp cận thông tin tín dụng như các tổ chức tín dụng khác.
“Với chính sách phù hợp và rào cản được tháo gỡ, cho thuê tài chính có thể trở thành một trong những công cụ tài chính quan trọng, giúp doanh nghiệp đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất và năng lực cạnh tranh, qua đó đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế đất nước”, ông Sơn kỳ vọng.