An toàn nợ công tại Việt Nam: Còn nhiều vấn đề đặt ra
Đó là tổ chức tốt công tác soạn thảo, trình cấp có thẩm quyền ban hành toàn bộ các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Quản lý nợ công và các Thông tư hướng dẫn đúng thời hạn hiệu lực.
Các chỉ tiêu nợ được kiểm soát chặt chẽ và nằm trong giới hạn theo các Nghị quyết của Quốc hội, góp phần quan trọng trong việc tiếp tục cải thiện mức xếp hạng tín nhiệm quốc gia của Việt Nam.
Tổ chức huy động vốn vay của Chính phủ theo đúng Nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch trung hạn và hàng năm.
Cùng với đó là đa dạng hóa các kỳ hạn phát hành trái phiếu Chính phủ; chủ động rà soát, định kỳ công khai đầy đủ và kịp thời thông tin về khung điều kiện vay ODA, vay ưu đãi; thường xuyên giám sát hạn mức vay ODA và vay ưu đãi cho đầu tư phát triển cho giai đoạn trung hạn 2016-2020 theo Nghị quyết của Quốc hội; kịp thời báo cáo Thủ tướng Chính phủ về những rủi ro có thể ảnh hưởng làm tăng hạn mức và ảnh hưởng đến cân đối ngân sách nhà nước trong trung hạn.
Điểm lại những nét chính về tình hình thực hiện công tác vay, trả nợ công năm 2018, ông Nguyễn Trọng Nghĩa - Trưởng phòng kế hoạch và quản lý rủi ro – Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại nhấn mạnh: “Vốn vay của Chính phủ là 318 nghìn tỷ đồng (vốn vay trong nước khoảng 250,5 nghìn tỷ đồng; vay nước ngoài trên 3 tỷ USD). Các chỉ tiêu nợ đến ngày 31/12/2018 đều đạt và thấp hơn rất nhiều so với chỉ tiêu nợ công đã được Quốc hội cho phép. Cụ thể, nợ công chỉ còn 58,4% GDP. Đây là kết quả rất ấn tượng, được các cơ quan xếp hạng tín nhiệm, tổ chức tài chính quốc tế đánh giá rất cao” .
Tuy nhiên, ông Nghĩa cũng cho biết, hiện còn một số vấn đề đặt ra đang có tác động đến sự an toàn của nợ công tại Việt Nam là việc các khoản vay sắp đến hạn trả.
Cụ thể, nhiều khoản vay trong nước cơ bản sẽ đến hạn sau 5 năm vay, tức là 2020-2021 tới đây; một số khoản vay ODA, kể cả có lãi và không lãi cũng đến hạn phải trả nợ gốc vào năm 2020… làm gia tăng áp lực trả nợ vào thời gian tới.
Báo cáo của Bộ Tài chính cũng cho thấy, mặc dù quy mô danh mục nợ Chính phủ đến cuối năm 2018 được kiểm soát tốt ở mức 50,0% GDP (so với mức 52,7% vào năm 2016; 51,7% vào năm 2017), tuy vậy, cùng với ảnh hưởng của việc Việt Nam tốt nghiệp IDA kể từ năm 2017, các chỉ tiêu chi phí - rủi ro danh mục nợ Chính phủ, đặc biệt là nợ nước ngoài, có xu hướng kém thuận lợi hơn trước đây.
Đáng chú ý, rủi ro tái cấp vốn tập trung vào các khoản nợ trong nước của Chính phủ do nghĩa vụ trả nợ đến hạn tập trung cao vào một số năm (9,3% danh mục nợ trong nước của Chính phủ sẽ đến hạn năm 2019; 32,7% sẽ đến hạn trong giai đoạn 2019-2021), điều này sẽ tác động đén việc bố trí nguồn trả nợ trong cân đối NSNN.
Đối với danh mục nợ nước ngoài của Chính phủ, trong 5 năm tới các khoản vay ODA sẽ giảm dần, tiến đến kết thúc, dẫn đến thiếu hụt nguồn vốn vay dài hạn, ưu đãi cho đầu tư. Thay vào đó, Chính phủ cần huy động các khoản vay mới với điều kiện kém ưu đãi hơn nhiều, sát với thị trường để bù đắp thiếu hụt cho cân đối NSNN và đầu tư công trung hạn.
Rủi ro lãi suất danh mục nợ nước ngoài có xu hướng gia tăng do tỷ trọng các khoản vay có lãi suất thả nổi tăng. Tuy nhiên, nhìn chung mặt bằng lãi suất bình quân nợ nước ngoài của Chính phủ vẫn duy trì ở mức thấp (2,0%/năm) do trên 96% khoản vay nước ngoài có điều kiện ODA, vay ưu đãi. Yếu tố này góp phần quan trọng giúp duy trì chỉ tiêu trả nợ trên thu NSNN trong ngưỡng an toàn, và được Quỹ Tiền tệ Quốc tế cũng như các tổ chức xếp hạng tín nhiệm đánh giá tích cực khi phân tích tính bền vững danh mục nợ của Việt Nam.
Đối với nợ trong nước, lãi suất bình quân gia quyền của danh mục nợ tính đến cuối năm 2018 ở mức 5,8%/năm, giảm đáng kể so với mức 6,6%/năm vào năm 2015. Tuy nhiên, do quy mô thị trường trái phiếu còn nhỏ, trong khi tiềm lực tài chính của các tổ chức tài chính phi ngân hàng còn hạn chế, việc tập trung phát hành TPCP kỳ hạn dài là tương đối khó khăn. Ngoài ra, việc không phát hành TPCP kỳ hạn ngắn dưới 5 năm cũng dẫn đến đường cong lãi suất chuẩn không đầy đủ, thiếu lãi suất ngắn hạn tham chiếu cho thị trường vốn.
Mặc dù tỉ lệ vay bằng đồng Việt Nam đã tăng lên (từ 55% vào cuối năm 2015 lên 59,2% dư nợ Chính phủ tính đến hết năm 2018), song danh mục nợ nước ngoài của Chính phủ vẫn tập trung vào 4 loại tiền chủ đạo gồm SDR, JPY, USD và EUR, là những đồng tiền có biến động lớn trong thời gian vừa qua.
Nhằm tăng cường quản lý nợ công, trong thời gian tới, Bộ Tài chính tiếp tục thực hiện quyết liệt chỉ đạo và chủ trương, giải pháp cơ cấu lại NSNN, quản lý nợ công tại để đảm bảo nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững tại Nghị quyết số 07-NQ/TW của Bộ Chính trị.
Tích cực phổ biến, tuyên truyền, tập huấn về các nghiệp vụ quản lý nợ công tới các đối tượng liên quan nhằm đảm bảo thực hiện đúng, đồng bộ và hiệu quả các quy định của pháp luật về quản lý nợ công.
Tổ chức đối chiếu, rà soát, đánh giá, tổng hợp nhu cầu vay của các bộ ngành, địa phương và các đơn vị sử dụng vốn vay công để dự báo tổng mức vay, trả nợ của ngân sách trung ương, ngân sách địa phương, hạn mức vay về cho vay lại và hạn mức bảo lãnh Chính phủ sau năm 2020; triển khai các công cụ quản lý nợ chủ động phục vụ việc xây dựng kế hoạch vay, trả nợ công 5 năm giai đoạn 2021-2025 để trình Quốc hội xem xét, quyết định.
Đồng thời, tiếp tục thúc đẩy phát triển thị trường vốn trong nước, thị trường TPCP cả về chiều rộng và chiều sâu, theo hướng đa dạng hóa công cụ nợ và mở rộng cơ sở nhà đầu tư; ưu tiên phát triển nhà đầu tư dài hạn và thu hút sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường vốn, thị trường trái phiếu.
Bộ Tài chính sẽ kiểm soát chặt chẽ việc thực hiện hạn mức nợ nước ngoài theo phương thức tự vay tự trả của doanh nghiệp và tổ chức tín dụng, bảo đảm trong hạn mức được phê duyệt, đặc biệt là các khoản nợ ngắn hạn.