Cải cách môi trường kinh doanh đang hướng đến thứ cần cho doanh nghiệp

09:03 | 24/01/2020 Doanh Nhân Việt Nam trên Doanh Nhân Việt Nam trên
Chia sẻ
(DNVN) - Với bối cảnh cạnh tranh toàn cầu gay gắt như hiện nay, với nội lực hiện tại, cải cách thể chế là con đường giúp Việt Nam hướng tới mục tiêu trở thành quốc gia thịnh vượng vào năm 2035.

Để làm rõ hơn những nỗ lực cải cách của Chính phủ, đặc biệt trong môi trường kinh doanh, phóng viên đã có buổi trao đổi với ông Phan Đức Hiếu – Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương về vấn đề này.

Để có được một kết quả khả quan cho cả nền kinh tế với sự công bằng cho tất cả các đối tượng đầu tư, nâng cao hiệu quả của nền kinh tế thì cải cách thể chế vẫn là điểm mấu chốt. Vậy ông có đánh giá gì về những nỗ lực cải cách của Chính phủ trong thời gian qua?

Cải cách môi trường kinh doanh đang hướng đến thứ cần cho doanh nghiệp - ảnh 1
 Ông Phan Đức Hiếu – Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương.
Ông Phan Đức Hiếu: Nhìn lại sâu hơn, chương trình cải cách về môi trường kinh doanh của Chính phủ tôi đánh giá rất tích cực. Đồng thời, rất phù hợp vì hướng đến thứ cần cho DN, một là cắt giảm chi phí, thời gian tuân thủ cho dn, cắt giảm được nó khiến DN có sức canh tranh hơn.
 Mặt khác, theo số liệu khảo sát từ VCCI, có nhiều kết quả tích cực được ghi nhận, DN cảm nhận thực sự về môi trường kinh doanh về hầu hết các chỉ số, lĩnh vực. Điều này ko chỉ tác động thực tế đối với DN mà đánh giá khách quan của tổ chức quốc tế cũng ghi nhận, ví dụ như tốc độ cải cách tốt hơn các nước khác thể hiện bởi sự tăng hạng. Chỉ số về xếp hạng cho thấy trong nỗ lực cải cách mình đã tốt hơn. Hầu hết các chỉ số của Việt Nam đều có sự tăng hạng, cho thấy cải cách mạnh mẽ hơn nhiều các nước khác. Duy nhất có điểm số về môi trường kinh doanh tụt một hạng.  
 Tuy nhiên, thứ hạng chỉ là một phần nhưng đánh giá cao nhất là cảm nhận thực sự của DN. Với kết quả điều tra của VCCI, có những chỉ số rất đáng khích lệ như họ cảm nhận tích cực hơn về cán bộ giải quyết trực tiếp các thủ tục ví dụ như năng lực tốt hơn, thái độ tích cực hơn…ứng dụng công nghệ thông tin tốt hơn trong việc giải quyết hồ sơ, giấy tờ. Chi phí chính thức giảm nhưng vẫn cao nhưng ít nhất là giảm so với năm ngoái.  
Theo nhiều chuyên gia, mặc dù chúng ta có cả quá trình cải thiện về môi trường kinh doanh nhưng cho đến nay kết quả vẫn chưa đạt được như mong muốn?
Ông Phan Đức Hiếu: Theo tôi đánh giá tích cực hơn không chỉ ở kết quả tích cực mà ở chỗ nếu không có chương trình cải cách này thì rõ ràng môi trường kinh doanh của Việt Nam xấu hơn rất nhiều so với hiện nay.
Bên cạnh đó, còn có sự chuyển biến về mặt thái độ, chủ động thích cực. Trước đây khi nói về cải cách, thường thì phản ứng không tích cực từ các cơ quan có liên quan là nhiều như những chỉ số, đánh giá này có đáng tin cậy không, hoặc như, chúng tôi đang làm rất tốt, tại sao lại ghi nhận không tốt…nhưng dần dần tâm lý ấy không còn nữa. Cụ thể, trước đây, khi nghị quyết ra yêu cầu gì thì họ làm, khi họ làm xong là hoàn thành nhiệm vụ. Nhưng gần đây, cải cách về cắt giảm điều kiện kinh doanh thì đã có những bộ chủ động cắt giảm lần thứ hai như Bộ Công Thương, Bộ NN&PTNT. Tính chủ động này có nghĩa là tư duy về cải cách đã bắt đầu thay đổi từ việc làm theo lệnh của Chính phủ đến tự thân vận động.
Cải cách môi trường kinh doanh đang hướng đến thứ cần cho doanh nghiệp - ảnh 2
 Cải cách môi trường kinh doanh đang hướng đến thứ cần cho doanh nghiệp.
Tuy nhiên, cái chưa đạt so với kỳ vọng là xuất phát từ các nguyên nhân. Bởi một số vấn đề cải cách không thể cải thiện được nếu chỉ có sự nỗ lực của một cơ quan. Đòi hỏi sự phối hợp của nhiều cơ quan không chỉ là sự phối hợp, hợp tác trong công việc mà đòi hỏi sự thay đổi căn bản về phương thức quản lý. Như vậy, những cải cách sắp tới đòi hỏi một sự phối hợp, chuyển động và thay đổi đồng đều của các cấp, các bộ, hay kiểm tra trách nhiệm chuyên ngành thì đòi hỏi, ví dụ, rất nhiều sản phẩm tương tự nhau mà được phân chia bởi sự quản lý chất lượng của nhiều bộ ngành. Nếu chúng ta ghép quản lý chất lượng chuyên ngành vào một đầu mối, một bộ chịu trách nhiệm thì đòi hỏi thay đổi cả hệ thống luật pháp, cả về chức năng, đòi hỏi tất cả các bộ ngồi lại với nhau và thống nhất với nhau thì mới có thể làm được.
Mặt khác, cải cách của Chính phủ có vẻ như “đụng trần”, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình kể cả sửa đổi Nghị định Chính phủ cũng đã làm khá tích cực, ví dụ năm 2018 đã sửa mấy chục nghị định điều kiện kinh doanh. Hay các nghị định đơn lẻ như một số nghị định về quản lý chất lượng chuyên ngành đã sửa đổi. Tuy nhiên, hiện nay có rất nhiều cải cách đòi hỏi thay đổi cả luật. Trong khi đó, quy định của Luật đòi hỏi sự vào cuộc của cả Quốc hội. Đơn cử như, cải cách về điều kiện kinh doanh, theo thống kê của CIEM, thì có đến 38 luật có quy định về điều kiện kinh doanh. Nhưng phạm vi của Chỉnh phủ chỉ bãi bỏ những điều kiện kinh doanh mà được quy định ở Nghị định. Do vậy, một số cải cách trong một số lĩnh vực chúng ta chưa đạt theo mục tiêu kỳ vọng về thời gian.
Vẫn còn một số ý kiến cho rằng việc chậm cải cách còn có lý do về lợi ích của bộ ngành? Ông đánh giá như thế nào về nhận định này?
 Ông Phan Đức Hiếu: Hiện nay không có bằng chứng về điều này, nhưng cũng không thể phủ nhận không có việc đó. Nhưng lý do quan trọng trong việc cải cách này một phẩn là do năng lực cán bộ quản lý có hạn. Hiện nay sự thay đổi của pháp luật đòi hỏi thường xuyên cập nhật kiến thức, thông tin mới, phương thức quản lý mới. đôi khi, họ không có lợi ích gì nhưng cách họ lo lắng về những rủi ro. Ví dụ, họ đang thực hiện theo thói quen quản lý cũ. Nếu bây giờ thay đổi cách quản lý mới, họ lo lắng về rủi ro rằng: cái mới có tốt hơn không, hay xấu hơn. Nếu xấu hơn thì họ gánh chịu toàn bộ những rủi ro liên quan đến công việc, nên có tâm lý chung là thà rằng để cái cũ thì vẫn có thể kiểm soát được.
Như vậy, cách thức vận hành trong cơ quan nhà nước có tâm lý như vậy nên ngại sự thay đổi và lo lắng về rủi ro trong thực hiện trách nhiệm, nhiệm vụ của mình. Rõ ràng, rất ít khi họ tạo ra sáng kiến mới, tạo ra động lực để làm. Ngoài ra, trong nhiều trường hợp họ mong muốn có sự thay đổi nhưng luôn có tâm lý thay đổi kèm theo đó là rủi ro. Vì vậy, cập nhật kiến thức, nâng cao năng lực, có một cơ chế để đảm bảo giảm thiểu rủi ro cho hoạt động công vụ, khuyến khích họ thực sự sáng tạo là hiện nay rất cần thiết. Rõ ràng, ngoài lợi ích cài cắm thì cơ chế thực sự để cho cán bộ tự nâng cao năng lực, chấp nhận rủi ro, đưa những sáng tạo vào hoạt động cần phải quan tâm.