Cần bỏ tư duy “không quản được thì cấm” trong kinh tế chia sẻ
21:11 | 10/10/2019
Doanh Nhân Việt Nam trên
Chia sẻ
(DNVN) - Thời gian gần đây, kinh tế chia sẻ ngày càng phát triển mạnh mẽ ở nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, mô hình kinh tế chia sẻ đang khiến cơ quan quản lý nhà nước lúng túng, không quản lý tốt sẽ phát sinh nhiều rủi ro, nhưng nếu quản chặt với tư duy cũ, chính sách cũ sẽ có thể kìm hãm phát triển.
Đây chính là chủ đề được thảo luận tại Hội thảo Đẩy mạnh triển khai thực hiện Đề án thúc đẩy mô hình kinh tế chia sẻ, do Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) tổ chức sáng 10/10.
Theo các chuyên gia tại hội thảo, kinh tế chia sẻ được hiểu là việc chia sẻ những tài nguyên sẵn có bằng các ứng dụng công nghệ, từ đó chia sẻ lợi nhuận giữa các bên liên quan. Mô hình này phát triển khá mạnh trên thế giới do đem lại nhiều lợi ích cho cả nhà cung ứng dịch vụ lẫn người cho thuê và sử dụng tài nguyên.
Tại Việt Nam, tháng 8 vừa qua, tại Quyết định số 999/QĐ-TTg, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án thúc đẩy mô hình kinh tế chia sẻ. Mục tiêu của Đề án là tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng giữa hoạt động kinh tế chia sẻ và kinh tế truyền thống, đồng thời khuyến khích đổi mới sáng tạo, ứng dụng công nghệ số và phát triển kinh tế số.
Đánh giá về mô hình kinh tế chia sẻ hiện nay, TS. Nguyễn Mạnh Hải -Trưởng ban Nghiên cứu các vấn đề xã hội, CIEM cho rằng: Kinh tế chia sẻ ở Việt Nam chưa phát triển mạnh như ở nhiều nước nhưng cũng có tiềm năng lớn phát triển. Một số loại hình kinh tế chia sẻ đã xuất hiện như dịch vụ vận tải trực tuyến từ 2014 (Uber, Grab, dichung…); dịch vụ chia sẻ phòng có khoảng 6.500 cơ sở Airbnd. Nhiều dịch vụ khác cũng đã xuất hiện như: Du lịch Tiip.me, dịch vụ sửa chữa điện tử, điện lạnh, xây dựng; dịch vụ tài chính ứng dụng công nghệ cho vay ngang hàng….
Tuy nhiên, về mặt quản lý nhà nước, các loại dịch vụ kinh tế chia sẻ lại không có một quy định chung mà là những chính sách thể hiện cụ thể ở từng lĩnh vực. Chỉ ra một số bất cập và nguyên nhân, TS. Nguyễn Mạnh Hải cho rằng, việc cấp giấy phép kinh doanh còn gặp vướng mắc dẫn đến lúng túng trong xác định bản chất giao dịch để áp thuế do hoạt động này vẫn chưa có trong danh mục ngành nghề kinh doanh.
Bên cạnh đó, khung pháp lý về hoạt động kinh doanh hiện chưa có các quy định hay điều chỉnh các hoạt động kinh doanh “chia sẻ”. Luật Công nghệ thông tin chưa có quy định đối với các cá nhân hay tổ chức nước ngoài có hợp tác, kinh doanh không có văn phòng đại diện tại Việt Nam.
Đặc biệt, ông Hải nhấn mạnh vấn đề khoảng trống pháp lý với loại hình kinh tế này. Bởi hiện nay chưa có quy định pháp luật liên quan đến kinh tế chia sẻ, các chính sách quy định về nghĩa vụ tài chính và các chính sách khác; còn thiếu các chính sách đảm bảo cạnh tranh công bằng giữa kinh tế truyền thống và kinh tế chia sẻ trong từng ngành cụ thể; thiếu các quy định về quản lý chất lượng sản phẩm hoặc dịch vụ để bảo vệ người tiêu dùng; thiếu cơ chế, chính sách quản lý các giao dịch thanh toán điện tử xuyên biên giới và thiếu quy định về an toàn thông tin.
Là một trong số ít chuyên gia tại Việt Nam có những nghiên cứu khá chuyên sâu liên quan đến lĩnh vực kinh tế chia sẻ giao thông - vận tải, ông Ngô Vĩnh Bạch Dương – Trưởng phòng Pháp luật kinh tế, Viện Nhà nước và pháp luật cho rằng, các quy định cũ về định danh dịch vụ, cạnh tranh, bảo vệ người tiêu dùng, bảo vệ dữ kiệu cá nhân, hợp đồng, thuế đã trở nên chật hẹp với những phát triển mới của kinh tế nền tảng.
Theo ông Dương, sự lúng túng và sai lầm trong nhận thức về kinh tế chia sẻ và kinh tế nền tảng sẽ dẫn đến nhiều hệ lụy, mà rõ nhất là những tranh cãi về thân phận của các hãng cung cấp dịch vụ đặt xe cũng như những tài xế sử dụng dịch vụ đó chưa hề chấm dứt. Trong khi đó, nếu làm rõ được điều này, Nhà nước sẽ áp dụng các điều kiện kinh doanh tương ứng. Điều này cũng sẽ mang lại thuận lợi hơn cho công tác quản lý, đặc biệt là quản lý thuế.
Bên cạnh đó, theo vị chuyên gia này, các ứng dụng ngoại như Uber, Grab, hay nội địa như Fastgo, Be, MyGo hay VATO cũng là các điển hình của mô hình kinh tế chia sẻ, đang phát triển nhanh chóng. Người ta có thể chọn một hay một số công đoạn của dịch vụ vận tải để đầu tư một cách chuyên nghiệp và đó là quyền tự do kinh doanh của họ. Lịch sử giao thông - vận tải, logistics đã chứng kiến nhiều loại dịch vụ này như giao nhận, kho vận, môi giới… rất phổ biến trong lĩnh vực hàng hải, hàng không, dù người kinh doanh hoàn toàn không có phương tiện hay kho, bãi.
Vì vậy, ông kiến nghị Chính phủ nên tiếp cận theo hướng cởi bỏ các điều kiện kinh doanh thay vì áp dụng các điều kiện kinh doanh gò bó của mô hình kinh doanh truyền thống lên các mô hình kinh doanh đổi mới, sáng tạo. Trong quá trình quản lý các nền tảng, Nhà nước cần chú trọng xem xét các điều kiện giao dịch chung, đặc biệt trong việc phân định trách nhiệm các bên để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng và bảo vệ các đối tác yếu thế trong giao dịch.
Đồng quan điểm, TS. Nguyễn Thị Tuệ Anh, Phó Viện trưởng Phụ trách CIEM nhấn mạnh, các cơ quan quản lý nhà nước cần thay đổi tư duy, chấp nhận cái mới, đồng thời cho phép thử nghiệm các mô hình tiên phong. Thay vì tư tưởng không quản được thì cấm, mà nên dỡ bỏ các rào cản pháp lý không còn phù hợp.