CPI tháng 5 nhích 0,05%, giá điện tăng là một phần nguyên nhân
Theo số liệu vừa công bố của Tổng cục Thống kê, CPI tháng 5 tăng 0,05% so với tháng trước. So với tháng 12/2023, CPI tháng 5 tăng 1,24% và so với cùng kỳ năm trước tăng 4,44%. Bình quân 5 tháng đầu năm 2024, CPI tăng 4,03% so với cùng kỳ năm trước; lạm phát cơ bản tăng 2,78%.
Trong mức tăng 0,05% của CPI tháng 5 so với tháng trước, có 7 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng; 3 nhóm hàng giảm giá và 1 nhóm hàng ổn định giá.
7 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng
Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,38% (làm cho CPI chung tăng 0,13 điểm phần trăm), trong đó: Lương thực giảm 0,26%; thực phẩm tăng 0,59% (làm cho CPI chung tăng 0,13 điểm phần trăm); ăn uống ngoài gia đình tăng 0,14%.
Nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0,38% chủ yếu do giá điện sinh hoạt tăng 2,11%; giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng 0,28%; giá thuê nhà tăng 0,23%. Bên cạnh các mặt hàng tăng giá, có một số mặt hàng giảm giá: Giá dầu hỏa giảm 5,23% do ảnh hưởng của các đợt điều chỉnh giá trong tháng; giá gas giảm 1,6% do từ ngày 1/5, giá gas trong nước điều chỉnh giảm 7.300 đồng/bình 12 kg sau khi giá gas thế giới giảm 35 USD/tấn so với tháng trước xuống mức 582,5 USD/tấn.
Nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,31%, trong đó giá dịch vụ du lịch trọn gói tăng 1,12%; nhà khách, khách sạn tăng 0,28% do trong tháng có kỳ nghỉ Lễ 30/4-1/5 kéo dài nên nhu cầu đi du lịch của người dân tăng cao.
Nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,2%, tập trung chủ yếu ở mặt hàng đồ dùng cá nhân tăng 0,6%. Trong đó, giá đồ trang sức tăng 3,3% theo giá vàng trong nước; dịch vụ hành chính, pháp lý tăng 0,28%; dịch vụ hiếu hỉ tăng 0,12%; dịch vụ phục vụ cá nhân tăng 0,09%.
Nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,14% do thời tiết nắng nóng, oi bức nên nhu cầu tiêu dùng đồ uống giải khát tăng, cụ thể: Giá nước khoáng tăng 0,14%; bia các loại tăng 0,11%; nước quả ép tăng 0,09% và rượu các loại tăng 0,01%. Giá thuốc hút tăng 0,27% so với tháng trước do tỷ giá tăng.
Nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,12%, tập trung chủ yếu ở các mặt hàng điện lạnh do thời tiết nắng nóng nên nhu cầu tiêu dùng tăng. Trong đó, giá tủ lạnh tăng 0,7% so với tháng trước; bàn là điện tăng 0,56%; quạt điện tăng 0,38%; điều hòa nhiệt độ tăng 0,3%. Ngược lại, giá máy xay sinh tố, máy ép hoa quả giảm 0,45%; bình nước nóng nhà tắm giảm 0,32% do đẩy mạnh chương trình khuyến mại kích cầu mua sắm.
Nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,01% nguyên nhân chủ yếu do thời tiết nắng nóng, số ca nhiễm bệnh sởi, thủy đậu, tay chân miệng tăng nhanh nên người dân có nhu cầu mua các loại thuốc tăng cường hệ miễn dịch. Trong đó, giá nhóm thuốc giảm đau, hạ sốt, chống viêm tăng 0,18%; nhóm thuốc vitamin và khoáng chất tăng 0,16%; nhóm thuốc hoóc-môn và các thuốc tác động vào hệ nội tiết tăng 0,15%; nhóm thuốc tác dụng trên đường hô hấp tăng 0,11%; nhóm thuốc chống nhiễm, điều trị ký sinh trùng tăng 0,1%; thuốc tim mạch giảm 0,08%.
3 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá giảm
Nhóm bưu chính, viễn thông giảm 0,09% do các doanh nghiệp thực hiện chương trình khuyến mại đối với một số loại điện thoại di động mẫu mã cũ, phụ kiện máy điện thoại di động thông minh và máy tính bảng.
Nhóm giáo dục giảm 0,25% (dịch vụ giáo dục giảm 0,3%). Nguyên nhân chủ yếu do ngày 31/12/2023, Chính phủ ban hành Nghị định, trong đó yêu cầu các địa phương giữ ổn định mức thu học phí từ năm học 2023-2024 bằng mức thu học phí của năm học 2021-2022 đối với giáo dục mầm mon, giáo dục phổ thông công lập. Theo đó một số trường học đã điều chỉnh giảm mức học phí sau khi đã thu.
Nhóm giao thông giảm 1,73% (góp phần giảm CPI chung 0,17 điểm phần trăm), chủ yếu do giá xăng trong nước giảm 4,72%; giá dầu diezen giảm 5,08% do ảnh hưởng của các đợt điều chỉnh giá trong tháng.
Ở chiều ngược lại, có một số nhóm hàng tăng giá như sau: Giá nhóm phương tiện đi lại tăng 0,11%; giá vận tải hành khách bằng taxi tăng 0,94%; vận tải hành khách kết hợp tăng 0,22%; đường thủy tăng 0,18%; đường bộ tăng 0,1% do nhu cầu đi lại dịp nghỉ lễ 30/4 và 1/5 tăng. Phí thuê ô tô, xe máy tự lái tăng 0,22%; phí học bằng lái xe tăng 0,1%; giá dịch vụ bảo dưỡng phương tiện đi lại tăng 0,33%.
Nhóm hàng ổn định giá
Riêng nhóm may mặc, mũ nón và giày dép giữ mức giá ổn định do các doanh nghiệp và cơ sở kinh doanh thực hiện nhiều chương trình khuyến mại kích cầu mua sắm đầu mùa hè. Trong đó, giá quần áo may sẵn giảm 0,02%; khăn mặt, khăn quàng, găng tay, thắt lưng, bít tất giảm 0,08%. Ở chiều ngược lại, giá dịch vụ giày dép tăng 0,4%; dịch vụ may mặc tăng 0,23% và mũ nón tăng 0,2%.
Lạm phát cơ bản tháng 5 tăng 0,15% so với tháng trước, tăng 2,68% so với cùng kỳ năm trước
Cũng theo số liệu từ Tổng cục Thống kê, bình quân 5 tháng đầu năm 2024, lạm phát cơ bản tăng 2,78% so với cùng kỳ năm 2023, thấp hơn mức CPI bình quân chung (tăng 4,03%), chủ yếu do giá lương thực, xăng dầu, dịch vụ giáo dục và dịch vụ y tế là yếu tố tác động làm tăng CPI nhưng thuộc nhóm hàng được loại trừ trong danh mục tính lạm phát cơ bản.
Giá vàng trong nước cùng chiều với giá vàng thế giới. Tính đến ngày 24/5, bình quân giá vàng thế giới ở mức 2.352,56 USD/ounce, tăng 1,3% so với tháng 4. Gia tăng rủi ro địa chính trị ở khu vực Trung Đông cùng với nhu cầu dự trữ của các ngân hàng trung ương và nhà đầu tư là những nguyên nhân chính dẫn đến giá vàng trên thế giới liên tục tăng cao. Trong nước, chỉ số giá vàng tháng 5 tăng 3,81% so với tháng trước; tăng 21,47% so với tháng 12/2023; tăng 32,18% so với cùng kỳ năm trước; bình quân năm tháng đầu năm 2024 tăng 22,95%.
Tính đến ngày 24/5, chỉ số đô la Mỹ trên thị trường quốc tế đạt mức 105,06 điểm, tăng 0,1% so với tháng trước do hoạt động kinh doanh của Mỹ tăng tốc khi chỉ số PMI tổng hợp tháng 5 lên mức 54,4 là mức cao nhất kể từ tháng 4/2022.
Trong nước, nhu cầu ngoại tệ cho hoạt động nhập khẩu của các doanh nghiệp tăng cao, giá đô la Mỹ bình quân trên thị trường tự do dao động quanh mức 25.464 VND/USD. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 5 tăng 1,15% so với tháng trước; tăng 4,21% so với tháng 12/2023; tăng 7,85% so với cùng kỳ năm trước; bình quân năm tháng đầu năm 2024 tăng 5,24%.