Dệt may khó tận dụng ưu đãi trong EVFTA vì bài toán nguyên liệu
Sẽ được xóa bỏ thuế quan hoàn toàn theo lộ trình từ 5 đến 7 năm, dệt may là một trong những ngành hưởng lợi lớn từ Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA). Song, doanh nghiệp buộc sử dụng các nguyên liệu nội khối hoặc từ các quốc gia được phép mới được hưởng những ưu đãi này.
Báo cáo mới nhất của Bộ trưởng Bộ Công thương Trần Tuấn Anh gửi Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho biết, hiện tỷ lệ nội địa hóa của các doanh nghiệp dệt may mới đạt khoảng 40 - 45%. Vải sử dụng cho ngành phụ thuộc chủ yếu vào nhập khẩu.
Cụ thể, ngành vải may của Việt Nam hiện nay đạt sản lượng khoảng 2,3 tỷ mét/năm, mới chỉ đáp ứng được 25% nhu cầu thị trường trong nước. Hơn 7 tỷ mét phục vụ cho làm hàng xuất khẩu đang được ngành này nhập khẩu từ Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc.
Quy tắc xuất xứ từ vải trở đi đã trở thành cản trở lớn của các doanh nghiệp dệt may xuất khẩu trong việc tận dụng ưu đãi trong EVFTA.
Theo nội dung báo cáo, tính trong năm 2019, Việt Nam nhập khẩu khoảng 13 tỷ USD vải phục vụ cho ngành may mặc. Vải sản xuất trong nước phần lớn được sử dụng để may quần áo chất lượng trung bình và thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc xuất khẩu.
9 tháng của năm 2020, do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, nhập khẩu nguyên phụ liệu dệt may, trong đó có vải đã giảm đáng kể. Chi ngoại tệ nhập khẩu vải đạt 8,43 tỷ USD, giảm 13,4% so với cùng kỳ.
Nguyên nhân lớn nhất của sự kém phát triển đối với công nghiệp hỗ trợ ngành dệt may được Bộ trưởng Trần Tuấn Anh chỉ ra là các ngành sản xuất bông, sợi, nhuộm trong nước đến nay vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của ngành vải trong nước, do đó các doanh nghiệp dệt may nội địa vẫn phải nhập khẩu vải để sản xuất hàng may mặc.
Ngoài khó khăn về nguyên liệu, khâu dệt nhuộm cũng là điểm yếu trong chuỗi cung ứng dệt may Việt Nam.
Điểm nghẽn chủ yếu đối với công nghiệp hỗ trợ ngành dệt may là công nghệ nhuộm vải cũng như công tác xử lý môi trường để phát triển ngành dệt nhuộm vẫn chưa được quan tâm đúng mức, đã hạn chế việc các doanh nghiệp đầu tư sản xuất dệt vải và khởi nghiệp sáng tạo trong lĩnh vực thiết kế thời trang.
Ông Trương Văn Cẩm, Phó Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam chia sẻ, từng có dự án dệt nhuộm quy mô lớn không được địa phương cấp phép đầu tư do lo ngại các vấn đề về môi trường, đã tuyên bố rút khỏi Việt Nam. Nếu không chủ động được khâu này, doanh nghiệp dệt may không thể được hưởng lợi.
Trước thời điểm EVFTA chính thức có hiệu lực, ngành dệt may vẫn còn ngổn ngang những khó khăn chưa thể giải quyết để được hưởng những ưu đãi lớn từ hiệp định này.
Cụ thể, với EVFTA, 100% các mặt hàng dệt may của Việt Nam sẽ được giảm thuế nhập khẩu về 0% sau tối đa tám năm kể từ khi hiệp định có hiệu lực. EU sẽ xóa bỏ thuế quan với 77,3% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sau năm năm và 22,7% kim ngạch còn lại sẽ được xóa bỏ sau bảy năm.
Lợi thế về thuế sẽ giúp hàng dệt may Việt Nam tăng sức cạnh tranh so với các quốc gia khác, như Bangladesh, Campuchia, Pakistan… EVFTA được kỳ vọng sẽ giúp tăng khoảng 157 triệu USD kim ngạch xuất khẩu dệt may vào EU ngay năm đầu có hiệu lực và hơn 1 tỷ USD vào năm 2025.
Tuy nhiên, ngoài việc đáp ứng các quy tắc về nguyên phụ liệu trong Hiệp định EVFTA, việc chứng minh xuất xứ của sản phẩm dệt may cũng tương đối phức tạp. Hiện, Hiệp định cho phép áp dụng song song cơ chế cấp Giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) và cơ chế tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa.
Ngoài những nỗ lực từ doanh nghiệp, ông Trương Văn Cẩm, đề xuất, ngành dệt may cần sự hỗ trợ quyết liệt của Chính phủ, Bộ Công thương và sự mở lòng của chính quyền các địa phương trong tiếp nhận các dự án dệt nhuộm, đặc biệt là các dự án dệt nhuộm sử dụng công nghệ hiện đại, đã giảm thiểu được các mối lo về ô nhiễm môi trường.
Dưới góc độ là cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực xuất nhập khẩu, Bộ Công thương đang triển khai các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp về vấn đề chứng minh xuất xứ.
Ông Phan Văn Chinh, Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu cho biết, Cục Xuất nhập khẩu sẽ hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam cách xử lý, thực hiện và rà soát về mặt kỹ thuật khi có yêu cầu về kiểm tra, xác minh xuất xứ từ phía EU trong trường hợp cần thiết để bảo vệ lợi ích chính đáng của doanh nghiệp Việt Nam.
Ngoài ra, nhằm ngăn chặn các hành vi gian lận xuất xứ, ngoài việc thực hiện các chương trình nâng cao năng lực của cơ quan, tổ chức cấp C/O, Cục sẽ thành lập các đoàn trực tiếp kiểm tra, xác minh xuất xứ tại cơ sở sản xuất của doanh nghiệp để bảo đảm việc thực hiện quy tắc xuất xứ EVFTA.
Việt Khôi (T/h)