Điểm tựa tăng trưởng bứt phá và bền vững cho kinh tế Việt Nam
Tàu MSC KALINA là tàu container lớn nhất từng cập khu vực bến cảng Lạch Huyện, thành phố Hải Phòng. Ảnh: TTXVN phát
Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh, kinh tế-xã hội đất nước đạt nhiều kết quả nổi bật, khá toàn diện, cao hơn năm 2024 trên hầu hết các lĩnh vực, kinh tế Việt Nam đủ sức chống chịu với các cú sốc từ bên ngoài, như Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhận định: “bức tranh kinh tế-xã hội đất nước năm 2025 với gam màu sáng là chủ đạo”.
Bước sang năm 2026, trong bối cảnh kinh tế toàn cầu dự báo giảm tốc và thương mại quốc tế còn nhiều bất định, với nền tảng đã tạo dựng và sự điều hành quyết liệt của Chính phủ, kinh tế Việt Nam có cơ sở để kỳ vọng vào giai đoạn tăng trưởng bứt phá, bền vững.
Kinh tế 2025 với nhiều điểm sáng
Mặc dù, chỉ còn gần 10 ngày nữa là kết thúc năm 2025, nhưng mục tiêu tăng trưởng trên 8% trong năm 2025 đã được Cục trưởng Cục Thống kê (Bộ Tài chính) Nguyễn Thị Hương nhận định: “Chúng tôi đánh giá mục tiêu này hoàn toàn khả thi khi chúng ta tận dụng hiệu quả các động lực sẵn có và triển khai quyết liệt các giải pháp đã đề ra”.
Theo đó, kinh tế Việt Nam năm 2025 đang được khép lại với những điểm sáng đáng chú ý: Việt Nam đã kiên định chính sách ổn định kinh tế vĩ mô, tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp và giữ niềm tin thị trường.
Không những thế, nền kinh tế thể hiện khả năng phục hồi kiên cường, lạm phát bình quân được kiểm soát ở mức 4%; tỷ giá và lãi suất tương đối ổn định, tạo đà cho sản xuất, xuất khẩu và đầu tư phát triển. Đây chính là "tấm khiên vững chắc" để nền kinh tế đứng vững trước những cơn sóng biến động từ bên ngoài.
Cùng với đó, mặt bằng tăng trưởng mới đang dần hình thành với chất lượng được cải thiện trong môi trường đầy biến động. Theo đó, những tín hiệu tích cực của nền kinh tế trong năm 2025, từ xuất khẩu phục hồi, sản xuất công nghiệp cải thiện, đầu tư công có trọng tâm, tín dụng mở rộng, đến việc hé mở các động lực của tam giác tăng trưởng mới: kinh tế xanh - kinh tế số - kinh tế tri thức cho thấy nền kinh tế đang giữ nhịp trong bối cảnh "nhiều lực cản".
Theo đó, Việt Nam ghi nhận mức tăng rõ rệt trong xuất khẩu hàng hóa, yếu tố này trở thành động lực quan trọng kéo nền kinh tế vượt khó. Theo dự báo, kim ngạch xuất khẩu năm 2025 có thể vượt mốc 470 tỷ USD, tăng khoảng 16% so với năm 2024. Đặc biệt, quy mô thương mại không ngừng mở rộng đã góp phần quan trọng thúc đẩy sản xuất, tạo việc làm, ổn định kinh tế vĩ mô và nâng cao vị thế của Việt Nam trên bản đồ thương mại toàn cầu.
Ông Nguyễn Anh Sơn, Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) nhấn mạnh: Giai đoạn 2020–2025 đánh dấu bước bứt phá mạnh mẽ của hoạt động xuất nhập khẩu với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân khoảng 10%/năm. Từ năm 2023, Việt Nam đã chính thức gia nhập nhóm 20 nền kinh tế có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất thế giới và duy trì trạng thái xuất siêu liên tục trong suốt 10 năm qua, tạo nguồn ngoại tệ ổn định, giảm áp lực tỷ giá và củng cố dự trữ ngoại hối quốc gia.
Trong số các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam; nổi bật là ngành hàng nông lâm thủy sản; năm 2025, sẽ lập kỷ lục mới, dự kiến đạt gần 70 tỷ USD. Kết quả này phản ánh sự dịch chuyển rõ nét từ tăng trưởng theo lượng sang nâng cao giá trị, chất lượng và khả năng thích ứng của các ngành hàng chủ lực.
“Đây không chỉ là con số kỷ lục mới, mà trong đó nhiều nhóm ngành hàng cùng lúc thiết lập các cột mốc cao nhất từ trước tới nay”, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến nhấn mạnh.
Cùng với đó, năm 2025, nền kinh tế Việt Nam đã ghi nhận nhiều kết quả đáng khích lệ: khu vực công nghiệp và xây dựng đạt được những kết quả nổi bật; khu vực doanh nghiệp hoạt động sôi động, dịch vụ du lịch khởi sắc và môi trường vĩ mô ổn định….
Cùng với sản xuất công nghiệp, giải ngân vốn đầu tư công tiếp tục duy trì được tốc độ cao. Theo báo cáo của Bộ Tài chính, số giải ngân thực tế từ đầu năm đến hết ngày 11/12/2025 là 577.703,9 tỷ đồng, đạt 63,3% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao (913.216,2 tỷ đồng). Đây là con số tích cực so với cùng kỳ năm ngoái nhưng vẫn còn cách khá xa mục tiêu.
Theo chuyên gia kinh tế, nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê Nguyễn Bích Lâm, những kết quả đạt được trong năm 2025 cho thấy nội lực của nền kinh tế vẫn bền bỉ, khả năng thích ứng vẫn mạnh mẽ và dư địa cải cách vẫn rất lớn. Nếu chuyển hóa khó khăn thành động lực, biến thách thức thành cơ hội để hoàn thiện thể chế, tăng năng lực cạnh tranh và đầu tư có mục tiêu, Việt Nam hoàn toàn có thể bước vào chu kỳ tăng trưởng mới vững chắc hơn.
Kinh tế 2026, động lực từ đổi mới tăng trưởng
Sản phẩm tôm đông lạnh xuất khẩu của Tập đoàn thủy sản Minh Phú. Ảnh tư liệu: Vũ Sinh/TTXVN
Phân tích về nhiệm vụ năm 2026 và thời gian tới, Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết, Việt Nam kiên định, nhất quán tập trung thực hiện 2 mục tiêu chiến lược 100 năm: phấn đấu đến năm 2030, trở thành một nước đang phát triển công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; năm 2045 là nước phát triển, thu nhập cao.
Để đạt được 2 mục tiêu chiến lược nêu trên, Việt Nam xác định rõ cần phải tập trung thúc đẩy tăng trưởng, với mức từ 10% trở lên, gắn với giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế; khơi thông, huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế-xã hội…
Theo Thủ tướng Chính phủ, để thực hiện thành công mục tiêu chiến lược phát triển nhanh, bền vững, thì “chuyển đổi kép: xanh hóa và số hóa” có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Do đó, Việt Nam đổi mới mô hình tăng trưởng, lấy khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh làm động lực chính trong tất cả các ngành, lĩnh vực, đặc biệt là những lĩnh vực then chốt của nền kinh tế.
Người đứng đầu Chính phủ cũng nhấn mạnh nhiệm vụ tập trung hoàn thiện thể chế, hạ tầng và nhân lực chất lượng cao để thúc đẩy mạnh mẽ quá trình “chuyển đổi kép: xanh hóa và số hóa”; nâng cao năng lực tự chủ chiến lược và năng suất, chất lượng, hiệu quả, khả năng chống chịu, sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Đây cũng chính là những yếu tố then chốt quyết định dư địa tăng trưởng của Việt Nam trong giai đoạn tới.
Phân tích về động lực của kinh tế Việt Nam trong năm 2026, TS. Vũ Minh Khương, Trường Chính sách Công Lý Quang Diệu lưu ý đến khả năng chuyển hóa chính sách thành hành động.
"Năm 2026 là năm rất đặc biệt. Việt Nam đã có nền tảng ổn định vĩ mô và năng lực hội nhập tốt hơn nhiều nền kinh tế mới nổi, nhưng điểm quyết định nằm ở cải cách. Nếu Việt Nam tập trung mạnh vào đổi mới thể chế và chuyển đổi năng suất, tốc độ tăng trưởng có thể vượt kỳ vọng. Ngược lại, nếu để chậm cải cách, tăng trưởng năm 2026 có thể chỉ dừng lại ở mức trung bình, trong khi sức bền của nền kinh tế giảm", TS. Vũ Minh Khương cho hay.
Chuyên gia tài chính, TS. Lê Thu Hà thuộc Viện Chiến lược và Chính sách tài chính, Bộ Tài chính nhận định: "Triển vọng 2026 tích cực, nhưng để duy trì tốc độ tăng trưởng cao suốt giai đoạn 2026-2030, Việt Nam cần giải bài toán năng suất và đổi mới thể chế. Nếu không, tăng trưởng cao sẽ trở nên mong manh, phụ thuộc nhiều vào chi tiêu ngân sách và chu kỳ thương mại toàn cầu".
Tuy nhiên, triển vọng tích cực cũng sẽ đi kèm nhiều rủi ro cấu trúc; như là: năng suất lao động thấp, đặc biệt trong khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa; đầu tư ngoài nhà nước phục hồi chậm, chủ yếu do chi phí vốn cao, môi trường pháp lý biến động và thủ tục hành chính phức tạp; xuất khẩu dựa vào FDI, giá trị gia tăng nội địa thấp; thị trường lao động thiếu kỹ năng mới, đặc biệt trong công nghệ và kinh tế xanh; cán cân thương mại suy giảm, phản ánh năng lực cạnh tranh chưa được cải thiện tương xứng.
Chuyên gia Nguyễn Bích Lâm cũng nhấn mạnh, triển vọng kinh tế chỉ trở thành kết quả thực tế nếu được dẫn dắt bởi lựa chọn chính sách đúng và kịp thời.
Dựa trên bối cảnh và cấu trúc tăng trưởng hiện nay, các ưu tiên trong năm 2026 được các chuyên gia chỉ ra, đó là: cần tăng tốc giải ngân vốn đầu tư công, chuyển trọng tâm sang hiệu quả, tránh dàn trải, đẩy nhanh giải ngân các dự án hạ tầng chiến lược.
Cùng với đó, mở rộng không gian cho khu vực ngoài nhà nước, tháo gỡ điểm nghẽn pháp lý, tạo hành lang an toàn hơn cho đổi mới sáng tạo; đặc biệt, tập trung cải thiện năng suất lao động thông qua công nghệ, đào tạo và chuyển dịch cơ cấu ngành. Tái cơ cấu thương mại, nâng cao giá trị nội địa và năng lực chuỗi cung ứng trong nước.
Mặt khác, tập trung phát triển nhân lực số và nhân lực xanh để tạo nền tảng cho kinh tế tri thức; đồng thời, duy trì ổn định vĩ mô như một lợi thế cạnh tranh quốc gia… Những thông điệp chính sách này không chỉ định hướng năm 2026, mà còn giúp xây dựng nền tảng tăng trưởng mới cho giai đoạn 2026-2030.
Lãnh đạo Cục Thống kê cũng đề xuất một số giải pháp như: hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao chuỗi giá trị. Cụ thể, cần các gói tín dụng ưu đãi, hỗ trợ kỹ thuật về R&D, chuyển đổi số để doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME) có thể tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu; đồng thời, thúc đẩy mạnh mẽ các động lực tăng trưởng mới, phải có chính sách đột phá cho kinh tế số, công nghiệp bán dẫn, trí tuệ nhân tạo.
Tiếp đến là thu hút FDI có chọn lọc, chuyển từ "số lượng" sang "chất lượng", ưu tiên các dự án có hàm lượng công nghệ cao, cam kết R&D và có tỷ lệ nội địa hóa lớn; kích cầu tiêu dùng có trọng tâm, tập trung khuyến khích tiêu dùng hàng hóa sản xuất trong nước có giá trị gia tăng cao, đặc biệt là các sản phẩm công nghệ xanh.
Năm 2026, diễn ra trong bối cảnh kinh tế toàn cầu được dự báo giảm tốc. Thương mại quốc tế tiếp tục chịu tác động từ suy giảm nhu cầu, căng thẳng địa chính trị và xu hướng tái cấu trúc chuỗi cung ứng. Tăng trưởng toàn cầu được nhiều tổ chức dự báo thấp hơn năm 2025, đi kèm sự phân hóa rõ rệt giữa các khu vực.
Chuẩn bị bước sang giai đoạn phát triển mới với nhiều yêu cầu và thách thức, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Thanh Nam mong muốn, ngay từ đầu năm tới, Bộ Công Thương và Bộ Nông nghiệp và Môi trường sẽ tiếp tục rà soát, hoàn thiện quy chế phối hợp trên các lĩnh vực, đặc biệt là trong đàm phán các hiệp định thương mại, nhằm bảo đảm chuỗi cung ứng từ sản xuất đến tiêu thụ nông sản được vận hành thông suốt, hiệu quả…
Năm 2026 không chỉ là năm đầu tiên của nhiệm kỳ kế hoạch mới, còn là năm kiểm nghiệm năng lực hấp thụ vốn, năng lực cải thiện môi trường kinh doanh và khả năng kích hoạt động lực tăng trưởng mới.
Chặng đường phía trước còn nhiều thách thức, song với nền tảng đã được tạo dựng cùng và sự điều hành quyết liệt của Chính phủ, triển khai của các bộ ngành, Việt Nam có cơ sở để tin tưởng vào một giai đoạn tăng trưởng bứt phá và bền vững.