Định giá đang hấp dẫn, cơ hội tích lũy dần cổ phiếu ngân hàng?

Diên Vỹ 14:48 | 29/11/2024 Doanh Nhân Việt Nam trên Doanh Nhân Việt Nam trên
Chia sẻ
Định giá đa phần cổ phiếu ngân hàng đang ở khoảng dưới -0,5std. Theo nhận định Mirae Asset, đây là cơ hội tích lũy dần cổ phiếu ngân hàng.

 

Báo cáo tài chính quý III/2024 của các ngân hàng niêm yết cho thấy đà tăng trưởng lợi nhuận của các ngân hàng niêm yết phần nào chững lại trong quý vừa qua, với mức tăng 17,7% so với cùng kỳ, thấp hơn mức tăng 22,6% trong quý II nhưng tích cực hơn quý I với 9,5%. 

Lũy kế 9 tháng năm 2024, lợi nhuận các ngân hàng tăng 16,4% svck, một phần dựa trên cơ sở mức nền lợi nhuận khá thấp của 9 tháng năm 2023. Động lực chính cho tăng trưởng lợi nhuận đến từ thu nhập lãi thuần (NII) tăng bền bỉ, trong khi thu nhập ngoài lãi, đặc biệt là thu nhập thuần từ dịch vụ (NSI), vẫn chưa mấy khởi sắc. Theo đó, 9 tháng đầu năm nay, tăng trưởng tín dụng ổn định ở mức 14–15%, duy trì NII tăng 14,1% svck. 

Tuy nhiên, thu nhập lãi thuần trong quý III ghi nhận giảm 2% so với quý II. Thu nhập thuần từ dịch vụ NSI tại đa phần các ngân hàng ghi nhận giảm do thay đổi trong chính sách liên quan đến kinh doanh bảo hiểm và cách tính mới trong tăng trưởng tín dụng. Chỉ có VCB và TCB ghi nhận tăng trưởng tích cực trong kỳ nhờ chiếm thế mạnh trong mảng XNK và chứng khoán. Thu nhập khác (NOI) cũng chỉ tăng nhẹ ở mức 2,1% svck.

Nhìn sâu hơn về khả năng sinh lời, báo cáo ngành ngân hàng của Chứng khoán Mirae Asset Việt Nam (MAS) chỏ ra rằng biên lãi thuần (NIM) đã giảm nhẹ trong kỳ quý III/2024 do mức độ cạnh tranh cao, chi phí huy động từ thị trường 2 cao, và mảng ngân hàng doanh nghiệp liên tục chiếm ưu thế kể từ giai đoạn 2023.

Dù vậy, nhóm phân tích MAS kỳ vọng NIM sẽ duy trì hay hồi phục tương đối trong thời gian tới. Theo đó, kỳ vọng tăng trưởng tín dụng cân bằng hơn giữa các phân khúc sẽ phần nào giảm áp lực lên NIM. Bên cạnh đó, các ngân hàng cũng đang điều chỉnh lãi suất, đặc biệt là tăng lãi suất kỳ hạn ngắn, nhằm bình thường hóa lợi suất tài sản khi tín dụng KHDN tăng cao hơn. Còn tính trên cơ sở 12 tháng gần nhất, NIM vẫn đang duy trì xu hướng tăng 8 điểm % so với quý II và 22 điểm % so với 2023, đạt 3,47%.

 

“Trong thời gian tới, lợi thế của nhóm ngân hàng quốc doanh trong việc duy trì NIM có thể thay đổi khi thu nhập thuần của các ngân hàng quốc doanh gần như đi ngang, trích lập gia tăng, và bộ đệm trích lập vốn dồi dào cũng đang bị tận dụng triệt để nhằm duy trì lợi nhuận tăng trưởng dương”, nhóm phân tích MAS nhận định.

Về chất lượng tài sản, MAS nhận định diễn biến chất lượng tài sản của các ngân hàng niêm yết dù khá phân hóa nhưng đã có phần cải thiện. Tỷ lệ nợ xấu (NPL) của nhóm này giảm nhẹ trong quý III/2024, trung bình giảm 7 điểm % xuống còn 2,47%, dù vẫn cao hơn mức đầu năm khoảng 42 điểm %. Trong khi đó, tỷ lệ nợ dưới chuẩn (bao gồm nợ nhóm 2) giảm đáng kể hơn theo quý với 46 điểm %, hay 6 điểm % so với 2023 xuống 5,18%. So với mức nợ xấu đỉnh điểm trong quý III/2023 thì hai tỷ lệ này đã giảm lần lượt 14 điểm % và 67 điểm %. Ngoài ra, lượng nợ xấu hình thành mới trong kỳ cũng ghi nhận giảm đáng kể.

Tuy vậy, theo các chuyên gia, sự hồi phục chất lượng tài sản chưa được đồng nhất giữa các ngân hàng. Các ngân hàng ghi nhận chất lượng tài sản duy trì ở mức tốt có thể kể đến như VCB, TCB, và CTG, trong khi một vài ngân hàng vốn có chất lượng tài sản tốt lại có sự suy giảm tương đối trong kỳ như BID và MBB. 

Mặc dù chất lượng tài sản trên mặt bằng chung có phần cải thiện, mức độ cải thiện vẫn chưa đáng kể, một phần vì thị trường bất động sản có vẻ cần nhiều thời gian hơn để phục hồi, đặc biệt là trong mảng vay mua nhà. MAS kỳ vọng triển vọng vĩ mô hồi phục ổn định đi cùng với đó là ngành bất động sản cũng khởi sắc hơn sẽ hỗ trợ ngành ngân hàng ổn định chất lượng tài sản. 

Tỷ lệ bao phủ nợ xấu (LLR) cũng ghi nhận cải thiện trong quý III/2024, đồng thời cũng phân hóa tương đối. Trong đó, tỷ lệ LLR trung bình hồi phục khoảng 2,2% so với quý II, đạt mức 83%. Tuy mức trung bình ghi nhận cuối quý III có vẻ không quá khả quan so với giai đoạn chính sách tiền tệ được nới lỏng 2020-2022, tỷ lệ LLR hiện tại đang tương đương với mức 2019. Hiện tại, theo ước tính của MAS, số ngân hàng duy trì được mức LLR trên 100% giảm từ 5 xuống 4 trong quý, khi tỷ lệ này tại MBB giảm mạnh. 

Trong khi đó, xét theo các nhóm ngân hàng, chất lượng tài sản tại nhóm quốc doanh vẫn phần nào vượt trội hơn nhóm tư nhân. Tuy nhiên, chất lượng tài sản của nhóm này đã giảm tương đối trong kỳ, đặc biệt là tỷ lệ LLR, khi thu nhập của nhóm này bị hạn chế khi phải duy trì mức lãi suất thấp. 

Nhìn chung, MAS nhận định tình hình chung có phần cải thiện nhưng chưa thực sự khả quan khi đã được hỗ trợ bởi nhiều chính sách ưu đãi. Tình trạng NPL cao và LLR tương đối thấp cũng lý giải phần nào cho chủ trương duy trì mặt bằng lãi suất thấp. Vì vậy, vẫn có rủi ro là nợ xấu sẽ phát sinh nhiều hơn khi nhiều yếu tố cho thấy lãi suất (cho vay) sẽ tiếp tục tăng trong thời gian tới.

Ngoài ra, rủi ro từ nhóm TPDN hết thời gian ân hạn trong giai đoạn đầu vào giữa năm 2025 cũng có thể gây áp lực lên chất lượng tài sản của ngành, khi dòng tiền của các doanh nghiệp phát hành, đặc biệt là nhóm bất động sản, không khởi sắc hơn.

Với những diễn biến của 3 quý đầu năm, MAS kỳ vọng tăng trưởng lợi nhuận ngành ngân hàng có thể giảm tốc trong quý IV/2024 trước hết do ảnh hưởng từ mức nền cao của quý IV/2023 và kế hoạch tăng trích lập dự phòng khi nhiều ngân hàng cho rằng họ sẽ cần chi nhiều hơn cho khoản chi phí này nhằm cải thiện chất lượng tài sản. Mức độ hoàn thành kế hoạch năm tại nhiều ngân hàng cũng khá thấp. 

Về triển vọng năm 2025, tăng trưởng lợi nhuận sẽ vẫn phải phụ thuộc lớn vào NII nhờ vào tăng trưởng tín dụng. Các nguồn thu ngoài lãi vẫn chưa được kỳ vọng khởi sắc khi thiếu vắng nhiều động lực đáng kể, tăng trưởng lợi nhuận ròng dự kiến đạt 15–20%, tùy thuộc vào mức độ thận trọng của các ngân hàng trong quá trình bình thường hóa các chỉ số sức khỏe cũng như lợi nhuận.

Dù vẫn tích cực, mức tăng trưởng này vẫn sẽ khó khả quan như thường thấy trong giai đoạn 2017–2022, khi nền kinh tế hiện đang trong giai đoạn hồi phục dần. Tỷ trọng bất động sản được kỳ vọng điều chỉnh tương đối, trong khi gia tăng tỷ trọng các lĩnh vực sản xuất. 

  Nguồn: MAS 

Định giá cổ phiếu ngân hàng đang ở mức phù hợp để tích lũy

Trên thị trường chứng khoán, nhà đầu tư đang có xu hướng đặt kỳ vọng cao cho sự phục hồi của các doanh nghiệp nội nói chung, trong đó có cả ngành ngân hàng với nhiều ngân hàng lớn khi đặt mục tiêu tăng trưởng trên 30% cho 2024. Tuy nhiên, kết quả có vẻ thấp hơn đáng kể so với kỳ vọng, đặc biệt là đối với nhóm ngân hàng khi họ thường đạt mục tiêu nhưng lại liên tiếp trượt trong 2023 và khả năng trong 2024. 

Vì vậy, dù có khởi đầu rất tích cực, tuy nhiên thị giá của nhóm ngân hàng vẫn gặp nhiều đợt điều chỉnh mạnh đặc biệt là giai đoạn sau quý I và quý III khi kết quả dù tăng trưởng dương nhưng chưa đạt kỳ vọng. 

Các động lực bên ngoài như Fed điều chỉnh lãi suất, kinh tế Mỹ tăng trưởng tốt, và các chính sách kích thích kinh tế của Trung Quốc cũng không làm tâm lý thị trường hứng khởi. Thay vào đó, những thay đổi thường được suy diễn theo khuynh hướng tiêu cực. 

Về mặt tích cực, các chuyên gia chỉ ra rằng sự hồi phục của ngành ngân hàng về mặt vốn hóa từ cuối quý III đến đầu quý IV/2023, đồng pha với tăng trưởng lợi nhuận dương trở lại cùng kỳ. Theo đó, định giá được đưa trở lại về mức trung bình 5 năm từ mức -1 độ lệch chuẩn (std). Tuy nhiên, thị trường đang thiếu động lực để vượt ngưỡng định giá này, và đa phần điều chỉnh tại mức này. Hiện tại, định giá đa phần đang ở khoảng dưới -0,5std, theo nhận định, là cơ hội tích lũy dần cổ phiếu ngân hàng. 

 Nguồn: MAS

“Bên cạnh chiến lược xuyên suốt của chúng tôi với các cổ phiếu ngân hàng là nhóm có tiềm năng đầu tư trung và dài hạn, hiện tại các cổ phiếu có mức định giá hấp dẫn, có thể kể đến như TCB và VPB, sẽ tiềm ẩn ít rủi ro hơn trong ngắn hạn, đặc biệt trong bối cảnh quá trình hồi phục kinh tế chung sẽ không thể nào bằng phẳng. 

Triển vọng tại các ngân hàng quốc doanh sẽ là câu chuyện tương đối dài hạn hơn khi vấn đề giữ lại lợi nhuận được kỳ vọng sẽ sớm có giải pháp, trong khi các ngân hàng này cũng có những thế mạnh cạnh tranh khác biệt như CTG với FDI bền vững, BID hưởng lợi từ gia tăng đầu tư công, và VCB có khả năng gia tăng thị phần mảng xuất nhập khẩu”, báo cáo của MAS nói thêm.