FDI từ Trung Quốc tăng mạnh trong quý I/2019
Trình bày Báo cáo tại buổi tọa đàm, PGS.TS Phạm Thế Anh, cho biết, trong quý I/2019, thế giới chứng kiến nhiều biến động. Mặc dù tăng trưởng kinh tế vẫn được duy trì ở mức khá, nhưng kinh tế Mỹ và Trung Quốc trở nên bấp bênh hơn do cả những vấn đề nội tại lẫn căng thẳng thương mại giữa hai quốc gia. Trong khi đó, nền kinh tế châu Âu có nhiều bất ổn trước áp lực của đàm phán Brexit cũng như các chia rẽ khác trong nội khối. Tăng trưởng cao nhất vẫn thuộc về nhóm nước ASEAN. Tuy nhiên, việc các liên kết kinh tế lớn trên thế giới rạn nứt đã, đang và sẽ gây không ít những bất ổn cho nhóm các nước này, trong đó có Việt Nam, đặc biệt trong hoạt động thương mại và toàn cầu hoá.
Cùng với sự biến động của thế giới, tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong quý I ở mức 6,79%, thấp hơn so với mức tăng của cùng kỳ năm trước (7,45%). Tốc độ tăng của một số ngành có dấu hiệu chậm lại. Đáng lưu ý là sự sụt giảm mạnh của chỉ số PMI xuống mức thấp nhất trong vòng ba năm qua vào tháng 02/2019 do sự sụt giảm về lượng việc làm và hàng tồn kho khiến mức độ lạc quan của nhà sản xuất cũng giảm đáng kể.
Theo số liệu công bố của TCTK, khu vực dịch vụ tăng trưởng ở mức 6,5% trong quý I, thấp hơn so với cùng kỳ năm trước ở mức 6,7%. Bán buôn và bán lẻ với mức tăng trưởng 7,82% tiếp tục là ngành đóng góp nhiều nhất vào tăng trưởng chung của toàn nền kinh tế (0,95 điểm phần trăm); dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 7,60%; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 6,22% và hoạt động kinh doanh bất động sản tăng 4,75%. Lượng khách quốc tế tới Việt Nam cũng tăng đáng kể với trên 4,5 triệu lượt khách, tăng 7%.
Trong quý I, ngành nông, lâm, ngư nghiệp tăng trưởng khá ảm đạm, chỉ đạt 2,68%. Trong khi đó, khu vực công nghiệp và xây dựng có mức tăng trưởng 8,63% mặc dù thấp hơn mức 10,08% của cùng kỳ 2018 nhưng vẫn có đóng góp cao nhất vào tăng trưởng kinh tế. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục là động lực tăng trưởng chính của khu vực này với mức tăng cao 12,35%, nhưng thấp hơn quý I/2018 (13,56%).
Bên cạnh sự chững lại của tăng trưởng kinh tế, theo báo cáo của VEPR trong quý I/2019 cũng ghi nhận số doanh nghiệp (DN) tạm ngừng hoạt động tăng mạnh. Tính chung ba tháng đầu năm, cả nước có 28.451 DN đăng ký thành lập mới với tổng vốn đăng ký là 375,5 nghìn tỷ đồng, giảm 6,2% về số DN và tăng 34,8% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2018. Quý I/2019 chứng kiến 14.761 DN tạm dừng kinh doanh có thời hạn, cao hơn 20,8% so với năm trước. 58,4% trong số 15.331 DN chờ hoàn thành thủ tục giải thể bị thu hồi giấy chứng nhận đăng kí doanh nghiệp theo chương trình rà soát năm 2018. Điều này cho thấy các DN Việt Nam còn khá yếu và môi trường kinh doanh cần tiếp tục được cải thiện.
Cùng với đó, tổng vốn đầu tư toàn xã hội quý I chứng kiến sự suy giảm nhẹ về tăng trưởng so với quý trước. Tổng vốn đầu tư quý I ước đạt 359,2 nghìn tỷ đồng, tăng 8,4% so với cùng kỳ năm 2018. Khu vực ngoài Nhà nước tăng trưởng nhanh nhất với 13,8%, tiếp theo là khu vực FDI với 7,52% Khu vực Nhà nước vẫn đứng ở vị trí thấp nhất, ước đạt 2,1%. So với quý IV/2018, tăng trưởng vốn đầu trên tất cả các khu vực đều chậm lại, thấp hơn so với con số tương ứng của cùng kỳ năm trước (18,2%, 9,1% và 4,7%).
Về dòng vốn đầu tư nước ngoài, lượng vốn mới đăng kí đạt mức 3,82 tỷ USD, tăng 80,1%. Vốn bổ sung tăng 1,3 tỷ USD, bằng 72,5% so với cùng kỳ năm ngoái. Như vậy, trong ba tháng giải ngân vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong quý I/2019 đạt mức 4,12 tỷ USD tăng 6,2% cao hơn so với cùng kỳ năm 2018 (3,88 tỷ USD).
Xét theo đối tác, trong quý I/2019, Trung Quốc vươn lên trở thành nhà đầu tư lớn nhất với tổng số vốn 723,2 triệu USD. Các vị trí tiếp theo thuộc về Singapore 690,8 triệu USD; Hàn Quốc 547,3 triệu USD; Nhật Bản 471,5 triệu USD; Hồng Kông 456,4 triệu USD; Quần đảo Virgin thuộc Anh 207,3 triệu USD và Đài Loan 197,5 triệu USD. Sự vươn lên của FDI từ Trung Quốc đã thể hiện sự dịch chuyển dòng vốn đầu tư vào Việt Nam nhằm né tránh căng thẳng thương mại Mỹ - Trung và đón đầu hiệp định CPTPP, EVFTA.
Tuy nhiên, ông Phạm Thế Anh cũng đưa ra lo ngại việc dòng vốn từ Trung Quốc ngoài những tích cực đem lại cho việc làm và tăng trưởng, thì cũng có thể kéo theo những rủi ro về môi trường và quản lý lao động nước ngoài. Do đó, đã đến lúc Việt Nam cần rà soát lại các chính sách ưu đãi về thuế khóa hay đất đai đối với FDI nhằm tạo ra môi trường bình đẳng hơn với các DN trong nước.
Bên cạnh đó, cổ phần hóa khu vực DNNN gần như không có sự tiến triển trong suốt một năm qua. Những khó khăn trong quá trình định giá tài sản và tâm lý sợ trách nhiệm dường như đang là những rào cản chính của quá trình này.
Nhìn nhận về mức tăng trưởng đạt 6,79% của quý I, PGS.TS Phạm Thế Anh cho rằng, mục tiêu tăng trưởng 6,6 - 6,8% của năm 2019 do Quốc hội đề ra khả thi. Tuy nhiên, trước chiến tranh thương mại Mỹ - Trung và chủ nghĩa bảo hộ, rủi ro của kinh tế Trung Quốc, tương lai không rõ ràng của tiến trình Brexit và mâu thuẫn trong nội bộ khu vực EU, sự thất thường của Donald Trump, v.v... khiến tương lai của nền kinh tế Việt Nam trong năm 2019 trở nên bất định hơn do có thể chịu ảnh hưởng bởi các cú sốc từ thị trường thế giới. Trong bối cảnh đó, ông dự báo tăng trưởng năm 2019 ở mức 6,8%.
Cuối cùng, vị chuyên gia của VEPR khuyến nghị Việt Nam cần từng bước xây dựng đệm tài khóa, trước tiên thông qua việc tinh giản bộ máy nhà nước và cắt giảm chi tiêu thường xuyên. Bởi khi vấn đề thâm hụt ngân sách cao và nợ công tăng nhanh chưa được giải quyết, những thành tích về tăng trưởng hay lạm phát đang phải dựa vào một nền tảng bấp bênh.