Hàng nông sản xuất sang Trung Quốc có chiều hướng sụt giảm
20:39 | 14/09/2019
Doanh Nhân Việt Nam trên
Chia sẻ
(DNVN) - Nhiều chuyên gia cho rằng, thị trường Trung Quốc hiện nay đã có nhiều thay đổi song hàng hoá, nông sản Việt Nam vẫn không có sự cải tiến, chú trọng đầu tư từ khâu chọn mặt hàng, nuôi trồng đến bao bì nhãn mác, truy xuất nguồn gốc...
Hiện nay, Trung Quốc là nền kinh tế lớn thứ 2 trên thế giới, với dân số hơn 1,4 tỷ người, đây là thị trường nhập khẩu lớn nhất thế giới về nông sản để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng nội địa cũng như sản xuất chế biến hàng xuất khẩu là rất lớn và đa dạng, phong phú. Do đó, trong những năm qua, Trung Quốc luôn là thị trường quan trọng đối với nông thủy sản của Việt Nam. Trung Quốc hiện đang là thị trường đứng thứ 1 về cao su, rau quả, gạo và sắn các loại; đứng thứ 2 về hạt điều; đứng thứ 3 về thủy sản; đứng thứ 4 về chè; đứng thứ 12 về cà phê..., đồng thời vẫn đang là thị trường tiềm năng đối với một số mặt hàng nông sản khác.
Nhu cầu nhập khẩu các sản phẩm nông thủy sản của thị trường Trung Quốc phục vụ nhu cầu tiêu dùng nội địa cũng như sản xuất chế biến hàng xuất khẩu là rất lớn và đa dạng, phong phú. 32 tỉnh, thành phố của Trung Quốc đều có nhu cầu khác nhau đối với từng loại sản phẩm cụ thể. Trong khi đó, mỗi địa phương với dân số lớn có thể coi là 1 thị trường riêng lẻ như Sơn Đông (90,5 triệu người), Hà Nam (90,4 triệu người), Quảng Đông (104,3 triệu người), Tứ Xuyên (80,4 triệu người), Hà Bắc (71,8 triệu người), Giang Tô (75,6 triệu người), Hồ Nam (65,6 triệu người)...
Tuy nhiên, phát biểu tại Hội nghị Phát triển xuất khẩu nông thuỷ sản sang Trung Quốc diễn ra chiều ngày 13/9 tại Hà Nội, ông Trần Tuấn Anh, Bộ trưởng Bộ Công Thương, cho biết từ đầu năm đến nay, xuất khẩu mặt hàng nông sản sang Trung Quốc có chiều hướng sụt giảm.
Nguyên nhân đến từ việc nhu cầu tiêu thụ nội địa Trung Quốc sụt giảm vì nền kinh tế lớn thứ hai thế giới suy yếu trong nửa đầu năm 2019 dưới ảnh hưởng của cuộc chiến thương mại với Mỹ. Đồng thời thay đổi chính sách mới, kiểm soát chặt hơn các điều kiện nhập khẩu như tăng cường kiểm nghiệm, kiểm dịch, an toàn thực phẩm nhập khẩu, chính sách biên giới siết chặt theo hướng ngày càng đi vào chính qui, truy xuất nguồn gốc...
Bên cạnh đó, Việt Nam đã tham gia nhiều FTA, thị trường hàng hóa nông thủy sản được mở rộng, nhưng vấn đề đàm phán về kiểm dịch động thực vật đang là một bài toán cho các nước khi mở cửa thị trường hàng nông thủy sản cho nhau. Trong khi đó, "các doanh nghiệp Việt Nam còn thiếu thông tin, nghiên cứu, tìm hiểu về thị hiếu, nhu cầu của thị trường, giữ tập quán kinh doanh chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro, không ổn định về thị trường, dẫn đến tình trạng tồn đọng, ùn ứ trong nước và ảnh hưởng đến tiến độ, hiệu quả xuất khẩu.
Còn bà Lê Hoàng Oanh, Vụ trưởng Vụ Thị trường châu Á-châu Phi, Bộ Công Thương chỉ ra rằng, nhận thức của doanh nghiệp và người dân Việt Nam với thị trường Trung Quốc vẫn còn nhiều điểm tồn tại. Đặc biệt là, tâm lý coi thị trường Trung Quốc là thị trường dễ tính, hàng hoá từ nội địa ra cửa khẩu biên giới là xuất khẩu ngay được. Thậm chí, nhiều doanh nghiệp, người dân Việt Nam vẫn còn nhận thức Trung Quốc là "chợ biên giới". Tâm lý coi cửa khẩu là chợ để chào bán hàng mà không chuẩn bị trước khiến xảy ra nhiều đợt ùn ứ hàng hoá tại cửa khẩu do không phù hợp với nhu cầu của thị trường.
Thẳng thắn chỉ ra tồn tại trong sản xuất nông sản Việt Nam, bà Oanh chia sẻ: "Sản xuất nông sản của nước ta vẫn còn tình trạng chạy theo số lượng, không chú trọng vào chất lượng tạo ra áp lực cho tiêu thụ trong khi chất lượng kém khiến tiêu thụ rất khó. Không quan tâm đến các thủ tục về tiêu chuẩn, quy cách, bao bì đóng gói. Có trường hợp mang hàng ra biên giới và nếu thương lái Trung Quốc mua thì dùng bao bì của phía Trung Quốc để đóng gói”.
Theo Vụ trưởng Thị trường châu Á-châu Phi, các doanh nghiệp, hộ kinh doanh khi đưa hàng hoá ra cửa khẩu vẫn chưa cập nhật yêu cầu của phía Trung Quốc dẫn tới thiếu thủ tục, không đúng bao bì nhãn mác nên không thể thông quan được.
Việc xuất khẩu hàng hoá nông, lâm, thuỷ sản sang thị trường này chỉ yêu thực hiện theo hình thức tiểu ngạch, do các thương lái sang tận nơi tìm nguồn hàng và thu mua. Bản thân các doanh nghiệp Việt chưa hiểu rõ về thị hiếu, nhu cầu của thị trường, thiếu thông tin và chưa chủ động khai thác thị trường.
"Đặc biệt, phải nhận thức rằng, không phải chính sách liên tục thay đổi mà có những quy định phía Trung Quốc đã đưa ra từ rất lâu nhưng chưa thực hiện nghiêm, có những chính sách ban hành từ năm 2012 nhưng vẫn có sự "linh hoạt" cho nhập khẩu tiểu ngạch, tạo điều kiện cho người dân địa phương", bà Oanh nêu.
Chia sẻ cùng quan điểm, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Xuân Cường cho biết một nền sản xuất mà các doanh nghiệp vẫn chỉ tập trung vào sản xuất, không có chỉ đạo, giám sát, thiết kế hạ tầng không đầy đủ thì chỉ là thị trường sản xuất không hiện đại. Còn hiện tại, nhu cầu của nền kinh tế là sản xuất hàng hoá tập trung hiện đại.
Vì vậy, cần giải quyết tất cả khâu từ tìm hiểu thông tin thị trường (nắm bắt nhu cầu dung lượng, đặc điểm thị trường) để định dạng qui mô, vùng sản xuất, đến nghiên cứu phương thức sản xuất, cải thiện cơ sở hạ tầng, đồng thời tăng cường chuỗi giá trị, tăng chế biến. Không thể chỉ bán tươi, bán tươi chỉ hôm nay, tiền ít, rất bấp bênh, mai không bán được, không bảo quản được.
Đảm bảo được tất cả qui trình, không chỉ giúp doanh nghiệp luôn cung ứng đủ nguồn hàng cho thị trường Trung Quốc, không tạo ra khủng hoảng dư cung, mà còn đảm bảo đáp ứng được tiêu chuẩn khắt khe của mọi thị trường.