Năm 2022: Tăng tốc các giải pháp thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp

06:30 | 07/09/2021 Doanh Nhân Việt Nam trên Doanh Nhân Việt Nam trên
Chia sẻ
Sự bùng phát trở lại của đại dịch COVID - 19 đã ảnh hưởng đến tăng trưởng chung của toàn ngành công nghiệp vậy đâu là giải pháp phát triển ngành công nghiệp này trong năm 2022.

Tái cơ cấu công nghiệp - nhiệm vụ trọng tâm phát triển ngành 2022

Tại báo cáo đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch năm 2021, dự kiến kế hoạch năm 2022 ngành Công Thương, Bộ Công Thương cho biết đã rà soát đánh giá khả năng thực hiện kế hoạch phát triển công nghiệp của một số mặt hàng, nhóm hàng công nghiệp chủ yếu của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trên cơ sở đánh giá năng lực sản xuất, khả năng về thị trường tiêu thụ năm 2021.

Dự báo tăng trưởng sản xuất công nghiệp cả năm 2021 khó đạt được chỉ tiêu tăng trưởng 8-9% như kế hoạch đề ra. Trên cơ sở diễn biến tình hình trong nước và thế giới, dự kiến chỉ số sản xuất công nghiệp của toàn ngành công nghiệp cả năm phấn đấu tăng khoảng 5-6%.

Theo Bộ Công Thương, trong thời gian qua, Bộ đã ban hành và tập trung tổ chức triển khai quyết liệt việc ứng phó với dịch COVID-19 trên tinh thần rất chủ động, quyết liệt đồng bộ cả trong công tác phòng, chống dịch bệnh theo chỉ đạo chung của Ban Chỉ đạo quốc gia và trong công tác triển khai các giải pháp để xử lý khó khăn, vướng mắc nhằm thúc đẩy sản xuất kinh doanh của ngành công nghiệp.

Ngành công nghiệp (tiếng Anh: Industry) là một ngành sản xuất vật chất bao gồm các hoạt động khai thác của cải vật chất, chế biến và sữa chữa máy móc thiết bị, vật phẩm tiêu dùng

Theo đó thì nhiệm vụ trọng tâm năm 2022 của ngành công nghiệp là triển khai tích cực đề án cơ cấu lại đồng thời tiếp tục phát triển sản xuất công nghiệp theo chiều sâu để từng bước tạo ra những sản phẩm có thương hiệu quốc gia và có sức cạnh tranh trên thị trường khu vực và thế giới, tham gia sâu hơn trong chuỗi giá trị toàn cầu.

Tiếp tục đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp theo hướng tăng tỷ trọng các ngành chế biến, chế tạo và giảm tỷ trọng gia công, lắp ráp đối với các sản phẩm công nghiệp được sản xuất ở Việt Nam. Rà soát cơ chế, chính sách tác động đến công nghiệp của từng ngành, sản phẩm. Từng bước tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp để tăng khả năng cạnh tranh, xây dựng hàng rào kỹ thuật đối với sản phẩm nhập khẩu để hỗ trợ sản phẩm trong nước, tăng tỷ lệ nội địa hóa. “Quan trong phải phục hồi sản xuất, chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị bị đứt gãy, hỗ trợ doanh nghiệp trong việc tìm kiếm thị trường xuất nhập khẩu nguyên nhiên vật liệu, phụ tùng, linh kiện thay thế”, Bộ Công Thương nêu rõ.

Bên cạnh đó, phát triển các ngành công nghiệp nền tảng như cơ khí, thép, thiết bị điện…; một số ngành công nghiệp có sức cạnh tranh quốc tế và tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu như dệt may, da giày, điện tử… Trong đó có chính sách ưu đãi đầu tư đặc biệt theo quy định của Luật Đầu tư để hình thành các dự án lớn, gia tăng tỷ lệ nội địa hóa, chuyển giao và làm chủ công nghệ thiết kế, chế tạo.

Ưu tiên phát triển công nghiệp hỗ trợ cũng theo hướng lựa chọn các nhóm ngành công nghiệp hỗ trợ cần ưu tiên phát triển phù hợp với điều kiện cụ thể của từng giai đoạn phục vụ sản xuất công nghiệp để tăng cường khả năng tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu của các tập đoàn đa quốc gia.

Năm 2022, Bộ Công Thương tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách phát triển công nghiệp; rà soát, cải cách cơ chế chính sách, quy hoạch phát triển công nghiệp; điều chỉnh cơ cấu công nghiệp theo lãnh thổ, đặc biệt là tăng cường liên kết giữa các địa phương trong phát triển công nghiệp, hình thành các cụm liên kết ngành công nghiệp theo lợi thế của các địa phương.

Áp dụng công nghệ mới, hiện đại trong phát triển công nghiệp nâng cao sức cạnh tranh.

Tăng cường áp dụng hệ thống sản xuất tiên tiến và ứng dụng công nghệ cao, công nghệ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư trong sản xuất công nghệp… là một trong những giải pháp thực hiện được Bộ Công Thương hướng đến. Trên thực tế trong thời gian qua đã cho thấy, nhờ nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ đã thúc đẩy phát triển các ngành, lĩnh vực công nghiệp chủ lực, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam, đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu.

Các doanh nghiệp chế biến, chế tạo có xu hướng hoạt động ổn định

Tiêu biểu  trong lĩnh vực khai thác và chế biến khoáng sản, việc nghiên cứu, đầu tư đổi mới công nghệ đã góp phần tăng sản lượng than toàn ngành bình quân 9,4%/năm, đồng thời giúp nâng cao chất lượng, giảm giá thành sản phẩm và tạo ra các sản phẩm mới thay thế các sản phẩm nhập khẩu. Theo đó, tỷ lệ cơ giới hóa trong khai thác hầm lò đã tăng vượt bậc, từ 10% lên 80% trong những năm qua. Bên cạnh đó, thúc đẩy phát triển nền sản xuất cơ khí trong nước, tiết kiệm ngoại tệ, tạo sự chủ động và đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án.

Trong lĩnh vực năng lượng điện, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đã hoàn thành triển khai nhiều chương trình/dự án đầu tư, ứng dụng đổi mới công nghệ hiện đại, giúp vận hành hệ thống điện Việt Nam tiếp cận trình độ các nước tiên tiến trên thế giới… Các doanh nghiệp đã có khả năng thiết kế chế tạo động cơ công suất đến 5MW, các chủng loại biến áp đến 500 kV, chất lượng tương sản phẩm của châu Âu, đã đưa Việt Nam trở thành một trong số ít nước thuộc Đông Nam Á có khả năng chế tạo máy biến áp công suất lớn, đáp ứng yêu cầu của đất nước và tiến tới xuất khẩu.

Trong lĩnh vực thăm dò, khai thác và chế biến dầu khí: Không những ứng dụng và làm chủ được công nghệ hiện đại trên thế giới, cùng với các đơn vị nghiên cứu, tư vấn có năng lực trong nước, nhiều doanh nghiệp dầu khí Việt Nam đã nghiên cứu, chế tạo và triển khai thành công những công trình mang lại hiệu quả kinh tế và ý nghĩa mang tầm khu vực và thế giới.

Việc ứng dụng thành công các kết quả nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực cơ khí chế tạo cũng giúp khẳng định năng lực, vị thế và vai trò của tổ chức khoa học và công nghệ ngành Công Thương trong bối cảnh hội nhập và phát triển. Điển hình như: Công trình “Nghiên cứu, thiết kế, chế tạo, tổ hợp và đưa vào vận hành hệ thống bốc dỡ, vận chuyển than cho nhà máy nhiệt điện đốt than có công suất tổ máy đến khoảng 600 MW” do Viện Nghiên cứu cơ khí thực hiện, đã áp dụng thành công…

Hay, việc nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ trong lĩnh vực công nghiệp hóa dược đã mang lại những giá trị thiết thực với nhiều kết quả nghiên cứu được thương mại hóa, cho sản phẩm có chất lượng tương đương hàng nhập khẩu và giá cả cạnh tranh như: Viên nang mềm Cebraton có tác dụng hoạt huyết dưỡng não; sản phẩm thuốc an thần ASAKOYA điều trị mất ngủ; chế phẩm phòng chống khối u từ cây Hoàn ngọc; sản phẩm dầu gấc…

Trong thời gian qua, các chính sách khoa học và công nghệ cùng nhiều hoạt động hỗ trợ của Nhà nước, Bộ Công Thương đã thúc đẩy hoạt động nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ trong phát triển của lĩnh vực công nghiệp, cũng như từng doanh nghiệp. Đóng góp của tăng năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP) trong tăng trưởng VA của một số ngành công nghiệp chủ lực có xu hướng tăng. Tỷ lệ doanh nghiệp tham gia hoạt động đổi mới công nghệ ngày càng cao.

Nhờ đó, Việt Nam đã vươn lên trở thành một trong những quốc gia có nền công nghiệp có năng lực cạnh tranh toàn cầu (CIP) ở mức khá cao, thuộc nhóm các quốc gia có năng lực cạnh tranh công nghiệp trung bình cao. Nhiều mặt hàng xuất khẩu của nước ta tính đến nay đã có vị trí quan trọng trong xếp hạng thành tích xuất khẩu của thế giới như: Dệt may (thứ 7 thế giới về xuất khẩu), da giày (xếp thứ 3 thế giới về sản xuất, thứ 2 về xuất khẩu), điện tử (xếp thứ 12 thế giới; trong đó, mặt hàng điện thoại di động đứng thứ 2 thế giới), thủy sản (xếp thứ 4 thế giới), đồ gỗ (xếp thứ 5 thế giới)…

Tập trung tháo gỡ những khó khăn nội tại, giữ vững thị trường xuất khẩu, đi đôi với phát triển thị trường nội địa, mở rộng các kênh bán hàng để khai thác tối đa thị trường trong nước. Tăng cường các chương trình xúc tiến thương mại và quảng bá sản phẩm Việt Nam tại Mỹ, EU. Hướng dẫn doanh nghiệp thực hiện các biện pháp nhằm tuân thủ triệt để những điều khoản về vệ sinh, môi trường, lao động và quy trình công nghệ của các thị trường nhập khẩu.

Áp dụng hệ thống sản xuất tiên tiến

Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang và sẽ có những tác động hết sức mạnh mẽ tới nền sản xuất của mỗi quốc gia, đặc biệt, với “cú hích” mạnh mẽ từ đại dịch COVID-19, quá trình ứng dụng các công nghệ mới, thực hiện chuyển đổi số trong các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội đang diễn ra với tốc độ nhanh. Tài nguyên số, nguồn lực số chính là nguồn tăng trưởng mới và động lực gia tăng năng suất lao động của nền kinh tế nói chung và của ngành công nghiệp nói riêng.

Tỷ lệ doanh nghiệp tham gia hoạt động đổi mới công nghệ ngày càng cao, tận dụng những thành tựu từ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thúc đẩy mạnh mẽ khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo với trọng tâm là các doanh nghiệp chính là yếu tố nền tảng, giải pháp có tính căn cơ để ngành công nghiệp thực hiện tái cơ cấu cũng như phát triển mạnh mẽ trong giai đoạn 2021-2030, tận dụng tốt nhất cơ hội đến từ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.

Đặc biệt, tăng cường áp dụng hệ thống tổ chức sản xuất tiên tiến và ứng dụng công nghệ cao, công nghệ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư trong sản xuất công nghiệp cũng như đẩy nhanh ứng dụng công nghệ mới, công nghệ hiện đại đối với những ngành công nghiệp chủ lực, mũi nhọn và công nghiệp ưu tiên; tăng cường công tác ứng dụng chuyển đổi số, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu trong hoạt động sản xuất công nghiệp.

Trong công văn này cũng nêu cụ thể, đối với ngành than cần tăng cường áp dụng các giải pháp kỹ thuật tiên tiến, tối ưu hóa các chỉ tiêu công nghệ để tiết giảm chi phí sản xuất ở mức hợp lý và đảm bảo hiệu quả sản xuất kinh doanh; áp dụng đồng bộ các giải pháp kỹ thuật và quản lý nhằm sử dụng tiết kiệm tài nguyên, tiết kiệm chi phí trong tất cả các khâu thăm dò, khai thác, chế biến, kinh doanh than.

Hoạt động của các doanh nghiệp ngành than

Theo Vụ Khoa học và Công nghệ, Bộ Công Thương, thúc đẩy nghiên cứu, ứng dụng công nghệ phục vụ phát triển cách mạng công nghiệp, hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi số tiếp tục là định hướng ưu tiên của Bộ trong xây dựng kế hoạch khoa học và công nghệ trong thời gian tới. Đặc biệt, để triển khai Chương trình quốc gia phát triển công nghệ cao đến năm 2030 được Thủ tướng phê duyệt tại Quyết định số 130/QĐ-TTg, Bộ Công Thương đã phê duyệt khung Chương trình phát triển một số ngành công nghiệp công nghệ cao đến năm 2030, trong đó, tập trung vào việc phát triển, ứng dụng công nghệ, sản phẩm, dịch vụ công nghệ của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 vào trong các ngành sản xuất công nghiệp, thúc đẩy hình thành và phát triển một số ngành, sản phẩm công nghiệp công nghệ cao.

Bộ Công Thương cũng cho rằng, trong năm 2022 mức độ hồi phục của sản xuất, kinh doanh phụ thuộc nhiều vào diễn biến dịch bệnh và việc triển khai tiêm vaccine phòng chống dịch COVID-19. Trong khi đó, miễn dịch cộng đồng khó có thể đạt được trong ngắn hạn, việc xuất hiện các biến chủng mới của virus với tốc độ lây lan rộng tiếp tục là những rủi ro lớn. Chính vì vậy các doanh nghiệp phải nhanh chóng thay đổi thích nghi và sống chung với dịch bệnh.