Nhà đầu tư có thể học được gì từ lịch sử lạm phát của Mỹ
Lạm phát đang gia tăng, chạm mức cao nhất kể từ đầu những năm 1980. Vào thời điểm đó, cựu chủ tịch FED Paul Volcker đã tiêu diệt sự tăng giá tràn lan, ban đầu đã gây ảnh hưởng nặng nề đến nền kinh tế, nhưng mở ra nhiều thập kỷ phục hồi lặp đi lặp lại đối với cổ phiếu và trái phiếu.
Nếu lạm phát sau đại dịch COVID-19 ngày nay không dễ thay đổi, nó sẽ giống như những năm trước thời Volcker, hay nó có thể giống như sự tăng trưởng hạnh phúc hơn sau khi Thế chiến II kết thúc? Những giai đoạn này chứa đựng những bài học về cách mà thị trường tài chính có thể hoạt động.
Biểu đồ lạm phát và lãi suất tại Mỹ 1940-2020. Ảnh: WSJ.
Sau Thế chiến II, chứng khoán vẫn tăng trưởng tốt bất chấp lạm phát. Nhưng điều đó chỉ kéo dài đến giữa những năm 1960. Sau đó, lợi nhuận cổ phiếu và trái phiếu kho bạc gặp khó khăn cho đến sau khi lạm phát những năm 1970 bị dập tắt.
Theo Ian Harnett, chiến lược gia trưởng về đầu tư tại Absolute Strategy Research, điều khiến chứng khoán hoạt động tốt trong những năm 1950 là bởi dòng tiền đổ vào thị trường từ các quỹ hưu trí và các tổ chức khác mua cổ phiếu lần đầu tiên.
Điều đó đã giúp giảm cái gọi là phần bù rủi ro vốn chủ sở hữu xuống, đây là mức đo lường lợi tức phụ trội mà các nhà đầu tư cổ phiếu yêu cầu đối với trái phiếu chính phủ với rủi ro mất tiền của họ.
Trong những năm 1970, phần bù rủi ro tăng trở lại và cổ phiếu hoạt động kém hiệu quả khi lạm phát tiếp tục. Những manh mối giải thích tại sao điều này lại xảy ra nằm ở những yếu tố khác trong bối cảnh kinh tế.
Biểu đồ lãi suất trái phiếu và cổ phiếu 1960-2020. Ảnh: WSJ.
Sau chiến tranh, đã có những đợt lạm phát, nhưng nền kinh tế thực đã tăng trưởng đủ mạnh để theo kịp đà tăng giá. Các nguồn lực được sử dụng cho nỗ lực chiến tranh đã được đưa trở lại sản xuất trong thời bình. Sau đó, từ giữa những năm 1960, khoảng cách giữa tăng trưởng thực tế và ảnh hưởng của lạm phát đã mở ra.
Richard Sylla, giáo sư kinh tế danh dự tại NYU Stern, người đã viết lịch sử về lãi suất, mô tả đặc điểm của lạm phát sau chiến tranh khi giá cả bắt kịp với thực tế sau khi các biện pháp kiểm soát giá cả thời chiến được dỡ bỏ.
Mọi thứ đã thay đổi vào những năm 1960. Chi tiêu lớn của chính phủ Mỹ cho Chiến tranh Việt Nam và các chương trình Xã hội Vĩ đại của Tổng thống Lyndon Johnson đã khiến Mỹ áp dụng mức lãi suất thấp. Từ đó, nguồn cung tiền tăng mạnh và điều mà ông Sylla gọi là Đại lạm phát bắt đầu.
Nền kinh tế phát triển quá nóng. Thứ nhất, lỗ hổng sản lượng - thước đo khả năng sản xuất sản phẩm của nền kinh tế so với nhu cầu để tiêu thụ nó, đã âm khi cầu vượt xa cung.
Sau đó, vào cuối những năm 1960, tình trạng dư thừa cầu đã chuyển thành một xu hướng kéo dài đối với việc gia tăng cung vượt cầu. Khi lạm phát tăng, lực lượng lao động tăng lên và mọi người yêu cầu mức lương cao hơn.
Ông Sylla nói: Cùng lúc đó, FED chịu ảnh hưởng nhiều hơn từ chính trị: chủ tịch FED Arthur Burns đã hợp tác chặt chẽ với Richard Nixon để giúp ông tái đắc cử.
Biểu đồ lỗ hổng sản lượng và tỷ lệ thất nghiệp 1950-2020. Ảnh: WSJ.
Giá trị của đồng USD đã trở nên biến động sau khi Tổng thống Nixon đình chỉ khả năng chuyển đổi của đồng USD thành vàng vào năm 1971. Điều này đã gióng vang hồi chuông báo tử cho thỏa thuận Bretton Woods, thỏa thuận đã ràng buộc các đồng tiền quốc tế với nhau.
Đồng USD biến động mạnh hơn làm tăng giá nhập khẩu, làm cho lạm phát trở nên bất ổn và không chắc chắn. Sự không chắc chắn là không tốt với các nhà đầu tư và đó là một lý do tại sao phần bù rủi ro vốn chủ sở hữu tăng trở lại — và lợi nhuận thị trường chứng khoán bị ảnh hưởng.
Sau đó là cú sốc giá dầu đầu tiên, khi nhiều nước Ả rập chặn xuất khẩu sang Mỹ để phản đối việc Mỹ ủng hộ Israel.
Vậy hiện tại chúng ta đang ở tình huống nào? Chúng ta đang có phần bù rủi ro vốn chủ sở hữu thấp, khiến cổ phiếu không có nhiều đệm chống lại sự không chắc chắn.
Chính phủ Mỹ quyết tâm kích thích nền kinh tế và cắt giảm tỷ lệ thất nghiệp. Nhưng không giống như giữa những năm 1960, lỗ hổng sản lượng vẫn chưa được thu hẹp. FED vẫn giữ vai trò then chốt. Ngân hàng trung ương đã hứa sẽ để cho nền kinh tế nóng trong nhiệm vụ đạt được toàn dụng lao động.
Kinh tế quá nóng dường như là một viễn cảnh không chắc chắn, đặc biệt là nếu tốc độ cung tiền tăng nhanh gần đây được nhanh chóng điều chỉnh xuống mức thấp hơn nhiều so với FED đã là sau Thế chiến II.
Biểu đồ phần bù rủi ro vốn chủ sở hữu so với lạm phát. Ảnh: WSJ.
Điểm mà các nhà đầu tư đã quay đầu trong quá khứ là các kim loại quý như vàng. Trong những năm 1970, vàng cung cấp lợi nhuận điều chỉnh theo lạm phát rất mạnh. Đó là một yếu tố không có trong thời kỳ hậu chiến, khi việc kinh doanh vàng bị cấm.
Trong thị trường chứng khoán, các công ty trong các ngành công nghiệp chu kỳ - công nghiệp gắn với chu kỳ dao động của toàn bộ nền kinh tế như hóa chất, công ty khai thác mỏ, hoặc hãng hàng không, hoạt động tốt hơn trong cuối những năm 1970 và đầu những năm 1980 — so với các công ty trong các ngành mang tính chất phòng vệ, chẳng hạn như tiện ích hoặc các mặt hàng tiêu dùng chủ lực như xà phòng, thực phẩm và thuốc lá.
Kể từ đó, các cổ phiếu các ngành theo chu kỳ đã hoạt động kém hiệu quả, nếu loại trừ các công ty công nghệ. Tránh xa các công ty công nghệ, hoặc ít nhất là những công ty dựa vào lãi suất thấp để hứa sẽ có thu nhập trong tương lai có giá trị hơn hiện tại, có thể là chìa khóa đầu tư.
Tiệp Nguyễn