NIM nhiều khả năng đi ngang khi ngân hàng trong tình thế khó
Áp lực thanh khoản chưa hạ nhiệt
Đến hết tháng 11/2025, số liệu từ Ngân hàng Nhà nước cho thấy tín dụng ước tăng +16,5% so với đầu năm. Trong một nhận định gần đây, Yuanta Việt Nam dự báo tăng trưởng tín dụng cả năm 2025 có thể đạt 19–20%, hỗ trợ mục tiêu tăng trưởng kinh tế 8,0-8,5%.
Sang năm 2026, Chính phủ đặt mục tiêu tăng trưởng GDP hai con số, điều này được kỳ vọng sẽ tiếp tục thúc đẩy sự tăng tốc tín dụng.
Theo Yuanta Việt Nam, tăng trưởng tín dụng 2026 có thể sẽ đạt 20% hoặc cao hơn, tương đương tỷ lệ tín dụng trên tăng trưởng GDP sẽ là 2,0x. Các chuyên gia cho rằng mức này là khả thi, bởi tỷ lệ tăng trưởng tín dụng trên tăng trưởng GDP trung vị là 2,3x (dựa trên dữ liệu giai đoạn 2010-2025 từ FiinPro). Trong những năm gần đây, sau giai đoạn COVID tăng vọt lên 4,2x và 5,3x trong năm 2020 và 2021, tỷ lệ này trở lại mức 2,0x vào 2022-2025.
Trong khi tín dụng được kỳ vọng sẽ tăng trưởng mạnh mẽ, sự chậm nhịp hơn của tăng trưởng tiền gửi cũng như sự thay đổi trong cách tính tỷ lệ cho vay trên tiền gửi (LDR) trong năm 2026 được dự báo có thể tiếp tục gây áp lực lên thanh khoản của các ngân hàng.
Yuanta Việt Nam chỉ ra rằng thanh khoản của hệ thống ngân hàng gặp áp lực - với tỷ lệ LDR hiện ở mức tương đối cao - và dự báo sẽ tiếp tục chịu áp lực trong năm 2026 khi các khoản tiền gửi có kỳ hạn của KBNN sẽ không còn được tính vào phần mẫu số của công thức tính LDR, gây thêm áp lực lên thanh khoản của các ngân hàng trừ khi NHNN điều chỉnh quy định.
Hiện phần lớn tiền gửi của KBNN tập trung tại các NHTM nhà nước, bao gồm BIDV (152 nghìn tỷ đồng, chiếm 5,2% tổng nợ phải trả của ngân hàng); VietinBank (152 nghìn tỷ đồng, chiếm 5,8% tổng nợ phải trả); Vietcombank (157 nghìn tỷ đồng, chiếm 7,3% tổng nợ phải trả).
Các chuyên gia ước tính rằng tỷ lệ LDR sẽ tăng khoảng 1 điểm % nếu tiền gửi có kỳ hạn của KBNN bị loại trừ khỏi công thức tính LDR.
Ngân hàng tăng cho vay trung dài hạn, kỳ vọng giảm sức ép NIM
Biên lãi thuần (NIM) được dự báo có khả năng tiếp tục suy giảm, do các ngân hàng đối mặt với áp lực chi phí vốn (COF) trong quý IV/2025, đặc biệt là các ngân hàng phụ thuộc nhiều vào nguồn vốn liên ngân hàng.
Yuanta Việt Nam nhận định các ngân hàng đang đối mặt với tình thế khó: hy sinh lợi suất cho vay để hỗ trợ người đi vay, đồng thời tăng lãi suất tiền gửi để huy động vốn.
Theo đó, NIM có khả năng sẽ đi ngang hoặc – trong trường hợp tốt nhất – chỉ cải thiện nhẹ trong quý IV/2025 và năm 2026, khi các ngân hàng tiếp tục hỗ trợ người đi vay theo định hướng của NHNN. Trong khi đó, chênh lệch giữa tăng trưởng tín dụng (13,4% trong 9 tháng 2025) và tăng trưởng tiền gửi (9,7% trong 9 tháng 2025) đòi hỏi các ngân hàng phải tăng lãi suất huy động để bổ sung thêm tiền gửi, gây áp lực lên chi phí vốn.
"Chúng tôi ước tính lãi suất huy động sẽ tăng trung bình khoảng 25–50 điểm cơ bản so với quý trước trong quý IV/2025, và chúng tôi tin rằng các ngân hàng phụ thuộc nhiều vào nguồn vốn liên ngân hàng có thể phải đối mặt với áp lực thu hẹp NIM cao hơn trong bối cảnh lãi suất liên ngân hang đang gia tăng", các chuyên gia Yuanta Research nhận định.
Tuy nhiên, áp lực NIM có thể giảm bớt trong năm 2026, khi NHNN nhiều khả năng sẽ tiếp tục giữ chính sách tiền tệ nới lỏng nhằm hỗ trợ mục tiêu tăng trưởng GDP cao trong năm 2026. Hơn nữa, khả năng Fed cắt giảm lãi suất sẽ tạo điều kiện linh hoạt cho NHNN duy trì chính sách tiền tệ nới lỏng.
Trong bối cảnh NIM tiếp tục chịu áp lực, một số ngân hàng đã chuyển hướng sang các khoản cho vay trung và dài hạn để giảm thiểu tác động đến NIM.
Theo Yuanta Research, tính đến 30/9/2025, các khoản cho vay trung hạn tăng vọt 19% so với đầu năm, cho vay dài hạn tăng 17%, trong khi các khoản cho vay ngắn hạn tăng 13%.
Bên cạnh đó, một số ngân hàng đã thể hiện sự linh hoạt để tăng tỷ trọng vốn ngắn hạn dùng cho vay trung và dài hạn (SMLR), điều sẽ giúp cải thiện NIM. Chẳng hạn, nhiều ngân hàng đều đang duy trì tỷ lệ SMLR thấp hơn nhiều so với mức trần 30% do NHNN quy định như ACB (22,3%), HDB (22,7%) và CTG (23,0%)...
Trong khi đó, mặc dù không có dữ liệu SMLR quý III/2025 của BID và VCB nhưng các chuyên gia tin rằng hai ngân hàng này cũng đang duy trì tỷ lệ SMLR thấp hơn nhiều so với yêu cầu của NHNN. Sự linh hoạt này đặc biệt quan trọng đối với các ngân hàng thương mại nhà nước, vì điều đó sẽ cho phép các ngân hàng này đẩy nhanh việc giải ngân vào các dự án liên quan đến đầu tư công, và các khoản cho vay này chủ yếu là dài hạn.