Tuyên Quang dẫn đầu cả nước về tăng trưởng sản xuất công nghiệp quý I/2023
Số liệu do Tổng cục Thống kê công bố ngày 29/3 cho thấy giá trị tăng thêm toàn ngành công nghiệp quý I năm nay ước tính giảm 0,82% so với cùng kỳ năm trước.
Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 0,37%, làm giảm 0,1 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung của toàn nền kinh tế; ngành sản xuất và phân phối điện giảm 0,32%, làm giảm 0,01 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 5,38%, đóng góp 0,03 điểm phần trăm; ngành khai khoáng giảm 5,6%, làm giảm 0,2 điểm phần trăm.
Tính chung quý I, IIP ước giảm 2,2% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2022 tăng 6,8%) do kinh tế thế giới tiếp tục gặp nhiều khó khăn, biến động khó lường, lạm phát các nước mặc dù hạ nhiệt nhưng vẫn ở mức cao, đơn hàng giảm, kim ngạch xuất khẩu giảm. Trong đó, ngành khai khoáng giảm 4,4% (cùng kỳ năm 2022 tăng 2,8%), làm giảm 0,7 điểm phần trăm trong mức tăng chung; ngành chế biến, chế tạo giảm 2,4% (cùng kỳ năm 2022 tăng 7,3%), làm giảm 1,6 điểm phần trăm; ngành sản xuất và phân phối điện giảm 1% (cùng kỳ năm 2022 tăng 8%), làm giảm 0,1 điểm phần trăm; riêng ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 7,8% (cùng kỳ năm 2022 tăng 1,4%), đóng góp 0,1 điểm phần trăm.
Xét về địa phương, cả nước có 48 địa phương báo cáo chỉ số IIP tăng và có 15 địa phương ghi nhận IIP giảm (so với cùng kỳ năm trước).
Cụ thể, Tuyên Quang vươn lên dẫn đầu về tốc độ tăng chỉ số IIP cao nhất cả nước (tăng 18%), tiếp sau đó là các tỉnh thành: Thái Bình (tăng 13,9%), Quảng Trị (tăng 13,8%), Hải Phòng và Hậu Giang cùng tăng 13,1%. Nguyên nhân chủ yếu do các địa phương này có ngành công nghiệp chế biến, chế tạo; ngành sản xuất và phân phối điện tăng cao; chẳng hạn Tuyên Quang có chỉ số sản xuất của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo cao nhất cả nước với mức tăng 22,6%; Hậu Giang có chỉ số của ngành sản xuất và phân phối điện tăng cao nhất (286,1%)...
Ở chiều ngược lại, hai địa phương là Quảng Nam và Trà Vinh ghi nhận mức tăng trưởng IIP âm mạnh nhất so với cùng kỳ năm trước. Theo Tổng cục Thống kê, nguyên nhân IIP tăng trưởng âm của Quảng Nam phần lớn đến từ mức giảm của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo (giảm 34,3%), Trà Vinh giảm 29,3% về chỉ số sản xuất của ngành sản xuất và phân phối điện.
Xét về cơ cấu sản phẩm, trong quý I, bia dẫn đầu trong số những sản phẩm công nghiệp chủ lực có mức tăng cao so với cùng kỳ năm trước (tăng 27,8%). Xăng, dầu đứng thứ hai với mức tăng 20,6%; vải dệt từ sợi nhân tạo tăng 10,8%; sắt, thép thô tăng 9,2%; đường kính tăng 6,6%.
Ở chiều ngược lại, một số sản phẩm giảm so với cùng kỳ năm trước như ô tô giảm 17,8%; thép thanh, thép góc giảm 15,8%; xe máy giảm 13,8%; linh kiện điện thoại giảm 13,4%; vải dệt từ sợi tự nhiên và điện thoại di động cùng giảm 13,1%; quần áo mặc thường giảm 10,2%; xi măng giảm 9,9%; phân Urê giảm 6,3%; khí đốt thiên nhiên dạng khí giảm 6,1%.
Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 3/2023 tăng 20,9% so với tháng trước và tăng 2,5% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I năm 2023, chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 2,9% so với cùng kỳ năm 2022 (cùng kỳ năm 2022 tăng 6,6%).
Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính tại thời điểm 31/3 tăng 4,4% so với cùng thời điểm tháng trước và tăng 19,8% so với cùng thời điểm năm trước (cùng thời điểm năm trước tăng 17,7%). Tỷ lệ tồn kho toàn ngành chế biến, chế tạo bình quân quý I năm 2023 là 81,1% (bình quân quý I năm 2022 là 79,9%).
Về lực lượng lao động, số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 1/3 tăng 0,8% so với cùng thời điểm tháng trước và giảm 2,2% so với cùng thời điểm năm trước.