Bộ trưởng Bộ NN&PTPT lý giải nguyên do rừng phòng hộ tăng `đột biến` lên 312,95 ha
Trong phiên họp Quốc hội chiều 5/11, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Nguyễn Xuân Cường báo cáo thêm về một số vấn đề, lý giải nguyên do rừng phòng hộ tăng "đột biến" lên 312,95 ha.
Giải trình vấn đề tăng diện tích rừng tự nhiên
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn (Bộ NN&PTNT) Nguyễn Xuân Cường báo cáo thêm về một số vấn đề, trong đó có dự án hồ chứa nước Bản Mồng (Nghệ An). Theo Bộ trưởng, dự án Bản Mồng được phê duyệt từ năm 2009, có 2 hợp phần: hợp phần xây dựng toàn bộ dự án đập do Bộ NN&PTNT quản lý, thực hiện và hợp phần bồi thường, hỗ trợ tái đinh cư, giải phóng mặt do UBND tỉnh Nghệ An chủ trì thẩm định, phê duyệt thực hiện cả diện tích ở tỉnh Thanh Hóa và tỉnh Nghệ An. Vào năm 2009, theo Nghị quyết 66 thì dự án Bản Mồng không thuộc dự án quan trọng của quốc gia, năm 2011 thì dự án phải tạm dừng do không có kinh phí theo tình hình chung. Năm 2017 sau khi dự án được bố trí tiếp tục vốn để chuẩn bị triển khai, Bộ đã yêu cầu tỉnh Nghệ An và Thanh Hóa tổng rà soát lại diện tích đất sử dụng đặc biệt là đất rừng. Khi đó diện tích rừng phòng hộ dư thêm 312.95 ha, do đó dự án phát sinh tiêu chí quan trọng quốc gia theo quy định luật Đầu tư công.
Theo Bộ trưởng, lý do rừng phòng hộ tăng từ 94 ha lên 312,95 ha là do: Một, tại thời điểm phê duyệt dự án năm 2009, UBND tỉnh Nghệ An cập nhật thiếu số liệu rừng phòng hộ của tỉnh Thanh Hóa. Theo quy định của pháp luật, sau 10 năm có nhiều thay đổi, tiêu chí để tính rừng là diện tích rừng trước đây theo luật cũ là 0,5 ha; hiện nay là 0,3 ha nên diện tích rừng tăng lên. Hai, về thẩm quyền và thủ tục pháp lý, theo quy định tại khoản 7, điều 1, Nghị định số 02, đối với dự án đang trong quá trình thực hiện có sự thay đổi mà thay đổi khiến dự án thuộc tiêu chí dự án quan trọng quốc gia, thì Thủ tướng Chính phủ xem xét và chỉ đạo báo cáo tại Quốc hội vào kỳ họp cuối năm về tình hình triển khai dự án như đại biểu Đỗ Văn Sinh đã nói. Dù vậy đén tháng 8/2020 hai tỉnh mới hoàn thành bộ hồ sơ để trình lên, do đó mới có thể báo cáo Quốc hội.
Ngày 15/7/2020, Chính phủ đã ban hành Nghị định 83 thực hiện luật Lâm nghiệp, trong đó đã đề cập đối với dự án đã được chấp thuận chủ trương đầu tư, nhưng trong nội dung chưa quy định chưa xác định diện tích rừng được chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác; nếu là trường hợp thuộc thẩm quyền quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng của Quốc hội, thì giao cho Bộ NN&PTNT thực hiện trình tự thủ tục tổng hợp hồ sơ dự án báo cáo Chính phủ xem xét, trình với Quốc hợp quy định chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác.
Vì vậy, việc Chính phủ trình Quốc hội quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác về các dự án Sông Than (Ninh Thuận) và dự án Bản Mồng của Nghệ An là phù hợp với quy định hiện hành. Sau khi QH đồng ý về mặt chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng, thì Bộ sẽ trình TT CP quyết định điều chỉnh chủ trương dự án Bản Mồng; đối với dự án Sông Than, UBND tỉnh Ninh Thuận sẽ trình với Hội đồng nhân dân tỉnh điều chỉnh chủ trương đầu tư dự án.
Về ý kiến của đại biểu Nguyễn Thanh Hồng, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT phát biểu: "Nhiệm vụ của dự án là tạo hồ chứa nước 225 triệu m3, cấp nước cho 18.000 ha đất nông nghiệp, cấp tạm nguồn cho hạ mục lưu vực sông Cả với tốc độ là 22 m3/s để cấp cho hệ thống bắc và nam thủy lợi của tỉnh Nghệ An. Với hợp phần điện, chỉ kết hợp tận dụng lưu lượng xả về hạ du để cấp điện, do lịch cấp nước của thủy lợi, do ta tận dụng nên không liên quan đến việc tăng dung tích của hồ chứa, do đó không tăng diện tích rừng."
Về dự án tái định cư của hợp phần phía Thanh Hóa, có 118 hộ và là đồng bào dân tộc, đoàn giám sát của Quốc hội, Ủy ban Khoa học công nghệ của Quốc hội cũng đã đi kiểm tra, theo nguyên tắc của xây dựng dự án tái định cư phải làm sao cho đồng bào ta có điều kiện tốt hơn chỗ cũ, kể cả về nơi ở, kể cả về đất sản xuất, kể cả về sinh kế. Bộ sẽ yêu cầu tỉnh Nghệ An tổng hợp đầy đủ những nội dung này vào dự án hợp phần tái định cư của tỉnh để cùng thực hiện.
Đồng thời, Bộ trưởng cũng giải trình thêm về vấn đề tăng diện tích từ 9 triệu ha lên 14,6 triệu ha là tăng rừng tự nhiên hay rừng trồng. Theo Bộ trưởng, trong 14,6 triệu ha rừng có 10,3 triệu ha rừng tự nhiên, so với cách đây 30 năm thì diện tích rừng tự nhiên đã tăng 1,3 triệu. Dù vậy, chất lượng rừng tự nhiên hiện nay chưa được tốt, chỉ có 15% rừng giàu về trữ lượng, 50% là rừng trung bình và 35% rừng nghèo kiệt. Do đó, Bộ trưởng đề nghị Quốc hội tới đây, rừng tự nhiên bằng chính sách khoanh đuôi bảo vệ phải tăng hơn nữa định mức, để người dân tham gia trồng rừng quản lý, chăm sóc rừng ngày một giàu về mặt sinh học và trữ lượng phải tăng lên, chúng ta đang xây dựng khuôn khổ chính sách cho điều đó.
Bộ trưởng nhận định, kể cả phần 4,3 triệu ha rừng trồng cũng phải thay đổi kết cấu cây rừng lâu năm, cơ cấu hài hòa kết hợp đặc biệt giữa các nhóm cây bản địa. Tới đây, trong chương trình Dự án phát triển rừng năm 2021-2030, Chính phủ đã lấy ý kiến các bộ ngành và các địa phương, sẽ trình phê duyệt để đảm bảo các khả năng cố gắng tốt nhất để chúng ta có diện tích rừng ngày càng chất lượng.
Các đại biểu bổ sung ý kiến
Trước đó, đại biểu Trương Trọng Nghĩa (TP.HCM) giơ biển xin tranh luận với về vấn đề rừng và thủy điện, kinh tế thị trường, trong đó có nhắc tới việc Bộ trưởng Nông nghiệp Nguyễn Xuân Cường trong phiên thảo luận trước thông tin trước đây chúng ta có 9 triệu ha rừng nhưng nay tăng lên được 14,3 triệu ha rừng.
Theo đại biểu Nghĩa, đây là điều tốt tuy nhiên nên tách bạch rõ rừng tự nhiên và rừng trồng vì vai trò, tác dụng của hai loại này khác nhau. “Chỉ có rừng tự nhiên mới có năng lực bảo vệ đất đai, tích lũy nước ngầm tốt, khác với rừng trồng”.
Đại biểu Nguyễn Thị Lệ Thủy (Bến Tre) cũng thông tin, hiện rừng tự nhiên chiếm gần 19% tổng diện tích rừng đề xuất chuyển đổi. Dù diện tích rừng thay thế gấp 3 lần diện tích rừng bị chuyển đổi, phần lớn rừng trồng là các loại cây khai thác gỗ, không có khả năng trữ nước hay cản nước ngăn lũ. Đại biểu cho rằng phải quản lý nghiêm ngặt hơn việc quy hoạch và điều chỉnh quy hoạch lâm nghiệp, tổng thể bảo tồn đa dạng sinh học; hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo tồn đa dạng sinh học.
Đồng thời, đại biểu đề nghị phải cân nhắc kỹ việc chuyển đổi đất rừng cho các dự án phát triển kinh tế.Trong trường hợp thật cần thiết phải chuyển đổi, ưu tiên các dự án phục vụ thủy lợi, điều tiết nước, trữ nước phục vụ sản xuất nông nghiệp, sinh hoạt cho nhân dân; kiên quyết không phê duyệt chủ trương chuyển đổi sử dụng đất rừng tự nhiên đối với dự án không tìm được đất trồng rừng thay thế phù hợp. Hơn thế nữa, cần có giải pháp giải quyết dứt điểm tình trạng di cư tự phát ở một số địa phương, nhằm giảm áp lực cho rừng, tình trạng phá, lấn chiếm đất rừng; có chế độ đãi ngộ, thu hút lực lượng bảo tồn đa dạng sinh học trên đất liền, biển, đảo.
Linh Chi