Cầu nối doanh nghiệp nước ngoài và nội địa ngành gỗ còn hạn chế
Theo số liệu của Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam được đưa ra tại Hội thảo “Công bố báo cáo thường niên ngành công nghiệp gỗ Việt Nam” vào chiều 21/2, ngành gỗ hiện có khoảng gần 900 doanh nghiệp FDI đang hoạt động, với tổng vốn đầu tư khoảng 5,5 tỷ USD. Các doanh nghiệp FDI có các hoạt động đa dạng, trong đó chủ yếu hoạt động trong mảng chế biến đồ gỗ xuất khẩu, tiếp đến là mảng công nghiệp phụ trợ và sản xuất ván. Trong số 867 doanh nghiệp FDI hiện đang hoạt động chỉ có 61% (529 doanh nghiệp) trực tiếp có hoạt động xuất khẩu. Năm 2018 kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp này đạt gần 4 tỷ USD, chiếm 46,7% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả ngành gỗ. Đây là những con số có ý nghĩa rất lớn đối với ngành chế biến gỗ xuất khẩu của Việt Nam.
Bên cạnh ý nghĩa về kinh tế, các doanh nghiệp FDI còn có vai trò xã hội quan trọng. Theo con số mà các doanh nghiệp công bố, hiện có khoảng trên dưới 200.000 lao động hoạt động trong các doanh nghiệp FDI, bình quân khoảng 200 lao động/doanh nghiệp.
Các con số về kim ngạch và lao động của nhóm doanh nghiệp FDI ngành gỗ cho thấy một số khía cạnh quan trọng về ngành gỗ Việt Nam. Cụ thể, con số 46,7% là tỉ trọng kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI trong ngành nhỏ hơn rất nhiều so với con số về kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI nói chung (72%). Mặt khác, kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI trong ngành gỗ thấp hơn do với kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam. Điều này cho thấy các doanh nghiệp của Việt Nam trong ngành gỗ đã có những nỗ lực và vai trò rất lớn trong xuất khẩu. Đây là những thành tựu rất đang ghi nhận về các doanh nghiệp trong nước.
Đánh giá về vấn đề này, ông Tô Xuân Phúc, Chuyên gia phân tích chính sách, Tổ chức Forest Trends cho rằng: Nói tới đầu tư FDI trong ngành gỗ, điểm đáng chú ý là có sự mất cân đối giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp nội địa. Cụ thể, ngay trong năm 2018, trong tổng số 3.200 doanh nghiệp ngành gỗ trực tiếp có các hoạt động xuất khẩu với tổng kim ngạch xuất khẩu toàn ngành đạt 8,47 tỷ USD, số doanh nghiệp FDI là 529, chiếm gần 20% trong tổng số doanh nghiệp xuất khẩu và kim ngạch gần 4 tỷ USD, chiếm gần 47% trong tổng kim ngạch. Trong khi đó, trên 80% số doanh nghiệp Việt Nam lại chỉ chiếm khoảng 53% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Theo ông Phúc điều này cho thấy sự chênh lệch đáng kể giữa 2 nhóm. Sự chênh lệch này có lẽ phản ánh những khác biệt về một số khía cạnh giữa 2 nhóm, bao gồm quy mô vốn đầu tư, trình độ khoa học công nghệ, chất lượng lao động và tiếp cận thị trường xuất khẩu sản phẩm. Đồng thời, các kết nối giữa các doanh nghiệp khối FDI và doanh nghiệp nội địa rất hạn chế. Đến nay hầu như không có sự chuyển dịch về khoa học công nghệ, vốn, trình độ sản xuất, quản lý, tiếp cận thị trường giữa 2 khối này. Sự chênh lệch này có lẽ phản ánh những khác biệt về một số khía cạnh giữa 2 nhóm, bao gồm quy mô vốn đầu tư, trình độ khoa học công nghệ, chất lượng lao động và tiếp cận thị trường xuất khẩu sản phẩm. Cần có những đánh giá trong tương lai để tìm ra những khác biệt giữa 2 nhóm doanh nghiệp này.
Dù động lực mở rộng đầu tư FDI trong ngành gỗ vẫn đang được duy trì nhưng theo ông Phúc trong thời gian tới Chính phủ cần có những thay đổi về các cơ chế chính sách về thu hút vốn đầu tư FDI, nhằm thu hút đầu tư về công nghệ cao, lao động chất lượng, nhấn mạnh vào hiệu quả giá trị gia tăng của vốn đầu tư. Các cơ chế chính sách mới được kỳ vọng nhằm thu hút đầu tư FDI sẽ tạo ra sự chuyển dịch trong nhóm các doanh nghiệp Việt Nam từ vai trò của các “nhà thầu phụ” như hiện nay sang vai trò của các đối tác, hợp tác với các doanh nghiệp FDI ở nhiều lĩnh vực khác nhau, bao gồm cả lĩnh vực chế biến gỗ xuất khẩu
Ngoài ra, để đạt được mục tiêu xuất khẩu các sản phẩm gỗ 10,5 tỷ USD trong năm 2019, vị chuyên gia này cho rằng, trước mắt, ngành gỗ cần kiểm soát chặt chẽ tính hợp pháp của nguồn nguyên liệu gỗ nhập khẩu, đặc biệt là nguyên liệu từ các nguồn có rủi ro cao.
Để làm được điều này, các ngành chức năng phải kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ tại các cửa khẩu nhập khẩu; phối hợp với các cơ quan chức năng của các quốc gia cung cấp gỗ nguyên liệu nhằm tiếp cận với các thông tin về gỗ nhập khẩu. Các hội, hiệp hội cần thu nhập, chia sẻ thông tin về thực trạng của các nguồn cung gỗ nguyên liệu, khuyến khích doanh nghiệp nhập khẩu thực hiện trách nhiệm giải trình nhằm xây dựng một chuỗi cung ứng gỗ sạch.
Về dài hạn, ngành gỗ Việt Nam cần đi theo hướng chuyển đổi từ các sản phẩm thô sang các mặt hàng có giá trị gia tăng cao. Tăng trưởng của ngành không nên chỉ chú trọng vào mở rộng về kim ngạch thông qua việc gia tăng lượng xuất khẩu. Đã đến lúc ngành cần chú trọng thúc đẩy tăng trưởng về chất lượng. Điều này đòi hỏi ngành cần có sự thay đổi đồng bộ trong tất cả các khâu của chuỗi cung, đặc biệt là đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, phát triển mẫu mã, hình ảnh, thương hiệu sản phẩm.