CEO ngân hàng VPBank Nguyễn Đức Vinh: Bản lĩnh tiên phong của người đứng đầu

14:30 | 21/04/2021 Doanh Nhân Việt Nam trên Doanh Nhân Việt Nam trên
Chia sẻ
Khác với những tổng giám đốc quyền lực của các ngân hàng khác CEO Nguyễn Đức Vinh bước chân vào ngành ngân hàng khá muộn và luôn thể hiện được những dấu ấn đặc biệt của người điều hành cao nhất.

Ông Nguyễn Đức Vinh là một doanh nhân có nhiều năm kinh nghiệm ở vị trí điều hành trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, với thành công gắn liền với 2 ngân hàng lớn là Techcombank và VPBank trong thời gian dài. Ông được đánh giá là một trong những vị lãnh đạo có nhiều sách lược đột phá, tạo bước tiến nhanh về quy mô và hiệu quả kinh doanh, về thương hiệu. Ông đã mở ra nhiều sản phẩm mới nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng, gây dựng đội ngũ lãnh đạo " đầy tiềm năng" cho ngân hàng.

Ông Nguyễn Đức Vinh là ai?

Ông Nguyễn Đức Vinh sinh ngày 16/9/1958 tại Hưng yên trong một gia đình có đông anh, chị em. Ông có Trình độ chuyên môn thạc sỹ quản trị kinh doanh, tốt nghiệp MBA ở Pháp, từng nhận học bổng Fulbright du học ở Mỹ.

Chân dung CEO ngân hàng VPBank Nguyễn Đức Vinh

Năm 1987 ông kết hôn cùng bà Đỗ Quỳnh Ngân và có 2 người con 1 trai, 1 gái.

Từ năm 1982-1984 ông thuộc đơn vị D153-F356; D200-F326 Quân khu 2.

Từ năm 1984-1989 ông Vinh làm cán bộ Vụ quan hệ quốc tế Tổng cục hàng không dân dụng Việt Nam, trong bối cảnh tổng cục này bắt đầu hàng loạt chiến dịch đổi mới, từ phân cấp quản lý đến tiền lương, hợp đồng kinh tế, phân phối lại các quỹ.

Năm 1989 khi Tổng công ty Hàng không Việt Nam chính thức được thành lập theo Nghị định 112 của Hội đồng Bộ trưởng, ông Nguyễn Đức Vinh “rời” biên chế về tổng công ty này với cương vị cán bộ Phòng Kinh tế đối ngoại. Chỉ 2 năm sau, ông trở thành Phó ban kiêm Trưởng phòng thị trường Ban vận tải.

Năm 1993, Công ty Hàng không Quốc gia Việt Nam (Vietnam Airlines) chính thức được hình thành với tư cách là một đơn vị kinh doanh vận tải hàng không có quy mô lớn nhất nước. Trong bối cảnh này, ông Nguyễn Đức Vinh được cắt cử làm Phó Tổng giám đốc Vietnam Airlines giai đoạn 1993 – 1996.

Sau 2 năm học cao học ở Pháp và Mỹ, ông Vinh trở về Việt Nam làm Trợ lý cao cấp của Tổng giám đốc Tổng công ty hàng không Việt Nam giai đoạn 1998 – 1999.

Năm 1999, ông Nguyễn Đức Vinh chính thức bước chân vào lĩnh vực ngân hàng trên cương vị phó tổng giám đốc Techcombank và trở thành giám đốc sau đó một năm.

Năm 2011 giữ chức phó chủ tịch hội đồng quản trị Techcombank.

Tháng 4/2012 ông bất ngờ nộp đơn từ nhiệm ở ngân hàng Techcombank.

Từ tháng 7/2012 - Nay ông làm Tổng giám đốc Ngân hàng Việt Nam thịnh vượng (VPBank)

Nguyễn Đức Vinh- CEO mang tính tiên phong, dẫn đầu

Khác với những CEO của các ngân hàng khác có xuất phát điểm là từ ngân hàng vào ngân hàng từ khá sớm. Ông Vinh bước chân vào ngân hàng khá muộn năm ông 41 tuổi và trước đó ông công tác trong ngành hàng không.

Sự nghiệp ông Nguyễn Đức Vinh toát lên rất rõ tính tiên phong. Như khi ông tham gia vào Tổng công ty hàng không Việt Nam và Vietnam Airlines ngay từ thời kỳ đầu thành lập. Nhưng phải đến khi sang Techcombank, trên cương vị điều hành cao nhất, dấu ấn của ông Vinh mới hiện rõ.

Năm 2001, Tổng Giám đốc Nguyễn Đức Vinh “gây sốc” trong giới ngân hàng khi quyết định chi tới gần 20 tỷ đồng để triển khai hệ thống Core Banking của Globus Teminos (Thụy Sĩ). Cần lưu ý rằng, vốn điều lệ thời điểm đó của Techcombank chỉ 100 tỷ đồng. Đa phần các ngân hàng thời đó lựa chọn phần mềm Silverlake của Malaysia với giá rẻ hơn nhiều.

Chân dung CEO ngân hàng VPBank Nguyễn Đức Vinh

Việc làm chủ được hệ thống Core Banking của Thụy Sĩ cho phép Techcombank tạo ra khác biệt đặc biệt. Techcombank là ngân hàng đầu tiên cung cấp dịch vụ Internet Banking, ngân hàng đầu tiên cho phép thanh toán bằng tin nhắn trên điện thoại di động, ngân hàng hiếm hoi cho phép kết nối ngay lập tức tài khoản tiền gửi vào tài khoản ATM khi phát hành thẻ ATM.

Hệ thống này cũng cho phép Techcombank mở rộng nhanh chóng mạng lưới chi nhánh/ phòng giao dịch nhưng vẫn kiểm soát tốt hoạt động.

Hay việc bắt tay với ngân hàng HSBC vào năm 2005, trong vòng 4 năm từ 2005 đến 2009, HSBC lần lượt nâng tỉ lệ nắm giữ từ 10% lên đến gần 20%. Mặc dù đã có một vài ngân hàng có cổ đông chiến lược ngoại, nhưng ở quy mô tầm cỡ và danh tiếng, đây có thể coi là thương vụ tiên phong trong giới ngân hàng. Dư nợ tín dụng của Techcombank đã tăng gấp 10 lần, đưa ngân hàng này vào nhóm ngân hàng tư nhân hàng đầu.

Tiếp nối thành công ở Techcombank, ông Nguyễn Đức Vinh đưa ra hàng loạt sách lược mới mang đậm tính kỹ trị ngay khi bước chân vào VPBank.

Tháng 10/2012, chỉ sau 3 tháng khi nhậm chức, ông Vinh quyết định thành lập khối khách hàng doanh nghiệp SME trên cơ sở tách từ khối khách hàng cá nhân và SME, 3 tháng tiếp theo, khối này đã tiếp nhận thành công 22.000 khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ hoàn thành xây dựng 5 trung tâm khách hàng doanh nghiệp SME. Mảng SME sau đó liên tục trong những động lục tăng trưởng quan trọng nhất của VPBank.

Năm 2013, mảng kinh doanh c đạt tăng trưởng tín dụng tới 40%, tăng trưởng huy động 72%. Đến năm 2014, tăng trưởng tín dụng vẫn đạt mức khá cao 25%, trong khi huy động tăng tới 58%. Con số này năm 2015 lần lượt ở mức cao 30% và 54%. Năm 2016 và năm 2017, tăng trưởng tín dụng mảng SME của VPBank đạt 30% và 20%.

Hiện nay, VPBank là ngân hàng có số vốn điều lệ lớn thứ 8 Việt Nam, và là ngân hàng tư nhân có vốn điều lệ lớn thứ 3 Việt Nam với số vốn 25.300 tỷ đồng (1,3 tỷ đô) xếp sau Techcombank, MB Bank.

VP Bank cũng là ngân hàng có vốn hóa lớn thứ 5 Việt Nam, và là ngân hàng tư nhân có vốn hóa lớn thứ 2 trên sàn chứng khoán Việt Nam với vốn hóa 79.000 tỷ đồng (3,4 tỷ đô) chỉ xếp sau Techcombank.

Doanh thu (TOI) hợp nhất cả năm 2020 của VPBank đạt hơn 39 nghìn tỷ, tăng trưởng 7,4% so với năm trước và gấp gần 30 lần so với năm 2010 (1.309 tỉ đồng); Lợi nhuận trước thuế hợp nhất năm 2020 đạt hơn 13 nghìn tỉ đồng, hoàn thành 127,5% kế hoạch đề ra đầu năm, tăng trưởng 26,1% so với năm 2019 và tăng gấp 30 lần so với năm 2010; trong đó, lợi nhuận tại ngân hàng riêng lẻ đóng góp tới 71% vào lợi nhuận hợp nhất.

Cuối 2020, tổng tài sản VPBank đạt hơn 419 nghìn tỉ đồng, tăng trưởng 11,1% so với năm trước và tăng hơn 7 lần so với năm 2010 (59.807 tỉ đồng) ; tổng dư nợ cho vay khách hàng hợp nhất đạt hơn 320 nghìn tỉ đồng, tăng trưởng 19% so với năm trước và gấp hơn 11 lần so với năm 2010. Nợ xấu được kiểm soát tốt, với mức hợp nhất (theo Thông tư 02) vẫn duy trì ở mức dưới 3%, đạt 2,9% tại cuối năm 2020; trong đó tại ngân hàng riêng lẻ lần đầu tiên nợ xấu xuống dưới 2%.

Đặc biệt, đầu tháng 02/2020, Brand Finance – tổ chức định giá thương hiệu hàng đầu thế giới vừa công bố danh sách bình chọn 500 thương hiệu ngân hàng giá trị nhất thế giới, đáng chú ý, VPBank đã tăng 81 bậc, vượt lên vị trí thứ 280 (năm 2019 là vị trí thứ 361), và trở thành ngân hàng tư nhân Việt Nam đầu tiên lọt vào Top 300 ngân hàng có giá trị thương hiệu nhất thế giới.

Chỉ tính trong vòng 5 năm qua giai đoạn 2016 – 2020, VPBank đã nộp thuế gần 12.000 tỉ đồng cho ngân sách, trong đó riêng ngân hàng mẹ nộp thuế gần 6.200 tỉ đồng, luôn đứng trong top các doanh nghiệp nộp thuế cao nhất nước, xếp thứ tự 18, đứng thứ 3 trong số các doanh nghiệp có vốn tư nhân.

Mũi nhọn thứ hai đánh dấu trong sự nghiệp ngân hàng của Ông Vinh đó chính là mảng tín dụng ngân hàng. Mảng này tiền thân là khối tín dụng tiêu dùng được thành lập cuối năm 2010 với sản phẩm mua nhà mua xe trả góp. Ông Vinh về VPBank lúc ngân hàng đang trong giai đoạn đầu khai phá thị trường.

Giữa năm 2014, VPBank chính thức mua lại Công ty Tài chính- Than khoáng sản Việt Nam với vốn điều lệ là 1.000 tỷ đồng và đổi tên thành Công Ty Tài chính ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng (VPB FC).

Sau khi có được giấy phép, ông Vinh thực hiện bước ngoạt đối với VPBank: Tách khối tín dụng tiểu dùng khỏi ngân hàng, đưa về VPB FC để hoạt động duói pháp nhân độc lập với thương hiệu FE Credit.

Kết thúc năm 2014 FE Credit đang đạt mức tăng trưởng 40.000 khoản vay tiền mặt mới bình quân mỗi tháng ( thời điểm đó, trến 60% tổng dư nợ của FE Credit là vay tiền mặt).

Chân dung CEO ngân hàng VPBank Nguyễn Đức Vinh

Công ty này cũng tiếp tục duy trì vị trí số 1 cho vay tại thời điểm bán hàng (POS) đối với sản phẩm xe mô tô 40% thị phần nắm 30% thị phần phân khúc cho vay hàng tiêu dùng dù mới chỉ xâm nhập hơn 1 năm.

Năm 2015, FE Credit mở rộng mạng lưới phân phối thông qua việc gia tăng số lượng các điểm bán hàng từ 4.100 lên gần 5.500 điểm và tiếp cận hơn 1,1 triệu khách hàng mới. Đáng chú ý, dư nợ tín dụng tăng vọt lên 20.207 tỷ đồng, từ mức 3.634 tỷ đồng hồi đầu năm 2015.

Năm 2016 tiếp tục chứng kiến sự tăng trưởng vượt bậc của FE Credit với việc thu hút mới 2,7 triệu tài khoản, tăng số lượng điểm bán hàng lên 7.900, phát hành 125.000 thẻ tín dụng sau 1 năm ra mắt sản phẩm. Dư nợ tín dụng đạt mức tăng 60% lên 32.104 tỷ đồng.

Đặc biệt, lợi nhuận sau thuế năm 2016 của FE Credit chiếm tới 64,8% lợi nhuận hợp nhất của VPBank, tương đương 2.550 tỷ đồng. Năm 2017, tốc độ tăng tín dụng tiêu dùng của FE Credit là 40%. Lợi nhuận chiếm 51% tổng lợi nhuận sau thuế hợp nhất, tương đương trên 3.200 tỷ đồng.

Hiện tại, FE Credit là công ty tài chính tiêu dùng lớn nhất Việt Nam với hơn 55% thị phần và hơn 10 triệu khách hàng. VP Bank sở hữu 100% vốn tại FE Credit. Năm 2019 FE Credit có lợi nhuận trước thuế đạt gần 4.500 tỷ đồng, đóng góp 43,3% vào tổng lợi nhuận của VPBank.

Theo đó, tổng khối lượng giải ngân đạt 72.500 tỷ đồng, tăng 19% so với năm 2018. Dư nợ vào khoảng 60.594 tỷ đồng, vượt 13,7%. Tổng huy động vốn của doanh nghiệp vào cuối năm 2019 là 70.646 tỷ đồng, cao hơn 17,4% so với cùng kỳ năm trước.

Mặc dù hiện đang gặp phải những khó khăn nhất định trong mảng tín dụng tiêu dùng cũng như sự cạnh tranh khốc liệt từ các đối thủ khác nhưng thành quả mà Tổng Giám đốc Nguyễn Đức Vinh tạo dựng sau 9 năm “cầm lái” VPBank vẫn là quá ấn tượng. Và có lẽ ông Vinh vẫn đang tiếp tục dành trí lực của mình và nguồn lực của VPBank tạo dựng lên những thành quả mới mang đậm tính tiên phong.

Cuối năm 2017, VPBank đã niêm yết cổ phiếu trên HOSE tạo nên sự quan tâm lớn của các nhà đầu tư nước ngoài. Hiện nay vốn hóa thị trường của VPBank khoảng 2 tỷ USD, cao nhất trong số các ngân hàng tư nhân niêm yết.

Đây là thành công đáng tự hào của đội ngũ lãnh đạo và nhân viên VPBank, do CEO Nguyễn Đức Vinh dẫn dắt. Ông Vinh đến với VPBank từ năm 2012 và đã xây dựng ngân hàng này trở thành một trong những ngân hàng tăng trưởng ấn tượng nhất trong ngành ngân hàng Việt Nam.

Hiện tại CEO Nguyễn Đức Vinh không chỉ là một Tổng giám đốc tài năng trong giới ngân hàng mà còn là một đại gia của sàn chứng khoán Việt Nam. Ông hiện đang năm giữ 32,418,442 cổ phiếu VPB tương đương 1,32% cổ phần VPBank có giá trị 1,586.9 tỉ đồng.

Bà Đỗ Quỳnh Ngân (vợ ông Vinh) sở hữu 16.181.700 cổ phiếu VPB tương đương 0,64% cổ phần VPBank có giá trị 650 tỷ đồng.

Ông Nguyễn Đức Giang (con trai ông Vinh) sở hữu 10.061.971 cổ phiếu VPB tương đương 0,398% cổ phần VPBank có giá trị 400 tỷ đồng.

Tính theo giá 49.550 đồng/cổ phiếu (ngày 19/04/2021) thì hiện nay gia đình CEO VPBank Nguyễn Đức Vinh đang sở hữu 2.319% cổ phần VPBank có giá trị hơn 2.905 tỷ đồng, thuộc Top những giàu đình giàu nhất trên sàn chứng khoán Việt Nam. Rõ ràng cá nhân Tổng Giám đốc Nguyễn Đức Vinh và gia đình ông là cực kỳ giàu có, đích thực một đại gia.

Xem thêm: Ngân hàng VPBank: Khẳng định vị thế TOP 3 ngân hàng giá trị nhất Việt Nam

Nguyễn Dung