Dù hưởng lợi từ EVFTA nhưng doanh nghiệp Việt còn nhiều thách thức
Hiệp định Thương mại tư do giữa Việt Nam - EU (EVFTA) đã chính thức có hiệu lực từ ngày 1/8/2020. Sau 2 năm Hiệp định EVFTA có hiệu lực, nhiều ngành hàng như giày dép, dệt may, thủy sản, gỗ, rau quả… đều đã tận dụng khá tốt và gia tăng được kim ngạch xuất khẩu.
EVFTA - xung lực của xuất khẩu Việt Nam
Tại buổi tọa đàm, ông Trần Thanh Hải – Phó Cục trưởng, Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) đánh giá Hiệp định EVFTA đã mang lại những kết quả hết sức khả quan cho xuất khẩu Việt Nam trong 2 năm qua. Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, tính từ thời điểm Hiệp định có hiệu lực, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU cũng đạt khoảng 83 tỷ USD, với mức tăng trưởng xấp xỉ 15%.
Hiệp định này có tác động rất lớn đến hoạt động xuất nhập khẩu nói chung, vì EU là đối tác lớn và lâu năm của Việt Nam. EU là thị trường tiêu thụ rất nhiều sản phẩm của Việt Nam trong đó có thủy sản, lúa gạo. Bên cạnh đó, EU cũng là một thị trường đa dạng và cả các sản phẩm công nghiệp cũng được tiêu thụ lớn.
Trong 2 năm vừa qua, đa số các mặt hàng của Việt Nam xuất khẩu sang EU đều có mức tăng trưởng rất cao, đặc biệt một số nhóm hàng như sắt thép có mức tăng trưởng lên đến 200%, hoặc nhóm cà phê tăng 75,2%, hạt tiêu tăng trưởng 55,8%. Đối với các nhóm hàng truyền thống đã xuất khẩu mạnh từ trước khi có hiệp định như dệt may, gia dày, đồ gỗ, cũng đạt mức tăng trưởng từ khoảng 10-15%. Duy nhất có một nhóm hàng do tác động của dịch Covid-19 có bị giảm sút đó là điện thoại và linh kiện.
Tuy nhiên, về tổng thể, tác động của Hiệp định là một xung lực rất tốt cho hoạt động xuất khẩu của Việt Nam.
Với EVFTA, các mặt hàng rau, củ, quả, gạo, thủy sản cũng có nhiều cơ hội mở rộng thị phần tại thị trường EU nhờ hàng loạt cam kết ưu đãi thuế quan. Cụ thể có khoảng 220 số dòng thuế các sản phẩm thủy sản có thuế suất cơ sở từ 0-22%, số dòng thuế còn lại sẽ được cắt giảm về 0% theo lộ trình từ 3-7 năm.
Riêng ngành hàng thủy sản, bà Lê Hằng, Giám đốc Truyền thông - Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu Thủy sản Việt Nam nói, EU từng là thị trường số 1 của thuỷ sản Việt Nam nhưng sau đó bị rơi vào thứ 4, sau cả Nhật Bản, Trung Quốc, Hoa Kỳ bởi xuất khẩu cá tra liên tục bị sụt giảm, mặt hàng tôm, hải sản khác cũng liên tục bị sụt giảm. Tuy nhiên, năm 2020, Hiệp định EVFTA có hiệu lực đã mang lại kỳ vọng lớn cho xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường này. Theo đó, nhóm thuỷ sản chủ lực như tôm chiếm 40-50% xuất khẩu sang EU, cá tra chiếm 10-16%, các mặt hàng hải sản khác chiếm 35%...
Năm 2020, dù ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 nhưng xuất khẩu thuỷ sản đã hồi phục rõ rệt, tăng 8% so với cùng kỳ và xu hướng đó tiếp tục trong năm 2021. Cụ thể, năm 2021, sau khi EU mở cửa lại thị trường, thuỷ sản xuất khẩu tăng mạnh, đạt trên 1 tỷ USD, tăng 12%, trừ xuất khẩu cá tra giảm 17% do đại dịch Covid-19 và do lĩnh vực dịch vụ thực phẩm kênh tiêu thụ chính của cá tra phi lê đông lạnh tại EU sụt giảm.
Ngoài ra, do chuỗi cung ứng đứt gãy làm cho logistics bị đình trệ, chi phí cao khiến cho mặt hàng này khó chịu đựng. Đến năm 2022, hết quý II, EU là thị trường nằm trong ba nhóm xuất khẩu thuỷ sản cao nhất của Việt Nam.
Đặc biệt, trong bối cảnh lạm phát, nhưng với các thuế quan ưu đãi của EVFTA đã bộc lộ rõ nét, xuất khẩu thuỷ sản tăng 40%, đạt gần 700 triệu USD, xuất khẩu các dòng thuỷ sản chính kể cả cá tra đã tăng 30-39%, trong đó cá tra đã tăng gấp đôi so với cùng kỳ. Những kết quả trên cho thấy, doanh nghiệp chúng ta đã tận dụng cơ hội từ thị trường, cũng như các cơ hội thuế quan của EU để đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường này.
Ông Phạm Thái Bình, Giám đốc công ty CP Nông nghiệp công nghệ caoTrung An cho biết, 6 tháng đầu năm 2022, kim ngạch xuất khẩu gạo của Công ty tăng tới 68%, và riêng kim ngạch tăng tới 19%. Trong đó thị trường châu Âu trở thành thị trường chính của doanh nghiệp, gạo chất lượng cao là mặt hàng chủ lực của doanh nghiệp được xuất sang thị trường này.
Doanh nghiệp tận dụng đa dạng EVFTA
Đánh giá về việc doanh nghiệp tận dụng cơ hội từ EVFTA trong 2 năm vừa qua, ông Ngô Chung Khanh - Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách thương mại đa biên (Bộ Công Thương) nhận định doanh nghiệp Việt Nam tận dụng đa dạng từ EVFTA, những mặt hàng có thuế cao, được cắt giảm mạnh như rau quả, thuỷ sản đều tăng trưởng tốt. Điều này, cho thấy, doanh nghiệp đã tận dụng đa dạng EVFTA, tập trung vào các mặt hàng chúng ta có thể mang lại lợi thế tốt.
Ngoài ra, tất cả các thành viên EU đều nhập khẩu từ Việt Nam cho thấy doanh nghiệp Việt Nam đa dạng thị trường. Dù báo chí thời gian qua nhắc đến nhiều vấn đề khó khăn vì EU là thị trường khó tính với các hàng rào kỹ thuật, nhưng các doanh nghiệp vẫn sẵn sàng thử thách đó, đáp ứng yêu chuẩn cao để vào thị trường. Đó là điểm lớn, trong đó cho thấy tư duy của doanh nghiệp đã thay đổi để đáp ứng nhu cầu của EU và đưa hàng vào một cách bài bản.
"Hàng hóa khi xuất khẩu sang thị trường EU cũng như các thị trường khác thì cũng có nhiều các quy định liên quan, trong đó có quy định liên quan đến quy tắc xuất xứ. Đây vừa là hàng rào nhưng cũng là công cụ để giúp cho chỉ các doanh nghiệp của chúng ta tận dụng được ưu đãi từ hiệp định này, tránh chuyện gian lận xuất xứ từ các nước cạnh tranh khác", ông Trần Thanh Hải, Phó Cục trưởng, Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) nói.
Ông đánh giá, trong lĩnh vực xuất xứ hàng hóa, có thể nói các doanh nghiệp của chúng ta đã có sự làm quen và bắt nhịp được khá tốt, thể hiện qua hai quý đầu năm 2022, lượng hàng hóa xin giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa EUR.1 khoảng 5,8 tỷ USD, tương đương với khoảng 25% kim ngạch xuất khẩu sang EU trong giai đoạn này.
Chúng ta biết, với thị trường EU, bên cạnh hiệp định, hiện nay chúng ta có duy trì chương trình ưu đãi đơn phương GSP, thì những doanh nghiệp theo chương trình ưu đãi đó có thể không cần xin giấy chứng nhận xuất xứ này.
Tuy nhiên trong bối cảnh như vậy, tỷ lệ xin giấy chứng nhận xuất xứ vẫn đang 25%, tương đương với mức nhiều hiệp định khác sau 1 vài năm mới đạt được, thì thấy rằng, doanh nghiệp của chúng ta đã nắm rõ và hiểu được giá trị của hiệp định cũng như vai trò của chứng nhận xuất xứ.
Trong lĩnh vực về nông nghiệp, những ngành hàng như thủy sản, rau quả và gạo là những ngành có tăng trưởng xuất khẩu lớn vào thị trường EU thời gian qua, đồng thời cũng là những ngành có tỷ lệ tận dụng quy tắc xuất xứ về chứng nhận xuất xứ EUR.1 rất cao, đặc biệt với mặt hàng gạo tỷ lệ này là 100%. Điều đó, cũng thể hiện doanh nghiệp của chúng ta đã nhanh chóng nắm bắt và tận dụng được quy định này.
Thách thức tiếp cận thị trường châu Âu
Thủy hải sản là một trong những ngành được hưởng lợi từ EVFTA nhưng cũng đang đối diện nhiều khó khăn để tiếp cận thị trường. Thứ nhất, thách thức lớn đối với thuỷ sản khi xuất khẩu sang EU đó là đảm bảo quy tắc xuất xứ. "Mặc dù, chúng tôi nhận thấy Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thuỷ sản, Bộ Công Thương đã có nhiều chương trình phối hợp để đào tạo cho doanh nghiệp đảm bảo về chứng nhận xuất xứ, tuy nhiên cũng không tránh khỏi không tìm hiểu kỹ. Do từng thị trường có những kiểm soát riêng, dẫn tới những hiểu lầm về cấp CO, quy tắc xuất xứ. Đây chính là trở ngại đổi với thuỷ sản khi xuất khẩu sang EU", bà Lê Hằng, Giám đốc Truyền thông - Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu Thủy sản Việt Nam nói,
Thẻ vàng IUU cũng là yếu tố làm hạn chế rất nhiều khi xuất khẩu thuỷ sản sang EU, làm thiếu nguyên liệu xuất khẩu thuỷ sản sang EU.
Ngoài ra, lạm phát của EU hiện nay cho thấy thương mại sang thị trường này đang bị khủng hoảng nghiêm trọng. Thực tế này đang dẫn tới người tiêu dùng EU thắt chặt chi tiêu, tập trung vào mặt hàng giá vừa phải. Mặt khác, tỷ giá EUR so với USD thấp nhất sau 20 năm khiến người tiêu dùng hạn chế chi tiêu và điều này khiến cho nhà nhập khẩu sẽ thương lại với nhà nhập khẩu trong việc chậm đơn hàng.
Bên cạnh đó là áp lực cạnh tranh của thuỷ sản Việt Nam đối với các đối thủ khác. Như cạnh tranh về mặt hàng tôm của Ấn Độ, Ecuador … do nguồn cung, chi phí vận tải.
Từ những khó khăn, bà Lê Hằng đề xuất để tận dụng thị trường EU, trước hết chúng ta phải tháo gỡ được khó khăn về thẻ vàng IUU, lấy lại được thể xanh để tăng cơ hội cho thuỷ sản. Bởi nếu để chuyển sang thẻ đỏ, Việt Nam sẽ có nguy cơ mất thị trường EU. Và như vậy, mỗi năm sẽ mất 500 triệu USD riêng cho ngành thuỷ sản sang EU.
Bên cạnh đó, nhà nước cần có sự hỗ trợ đầu tư về khoa học công nghệ cho con giống, thức ăn chăn nuôi… Đặc biệt là tăng cường các giải pháp để tận dụng được chế biến phụ phẩm trong ngành thuỷ sản, bởi phụ phẩm chiếm khoảng 40-50% sản lượng thuỷ sản.
Theo ông Ngô Chung Khanh, để tận dụng tốt EVFTA, cần cải thiện tư duy, văn hoá doanh nghiệp của chúng ta. Đồng thời, cần sự vào cuộc mạnh mẽ hơn nữa của các cơ quan, bộ ngành, địa phương, trong đó địa phương cũng cần tích cực hơn nữa hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu. Cuối cùng là , là vấn đề quy tắc xuất xứ, liên quan đến nguồn nguyên liệu, chi phí kinh doanh, chi phí vận chuyển.