'May giáp' cho doanh nghiệp tăng sức chống chịu: Mấu chốt để phục hồi kinh tế
Trong 8 tháng đầu năm 2022, số liệu từ Cục Quản lý đăng ký kinh doanh (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) cho biết doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động đạt mức cao nhất từ trước đến nay với 149.451 doanh nghiệp, tăng 31,1% so với cùng kỳ năm 2021. Đáng chú ý, trong số đó, riêng doanh nghiệp thành lập mới trong 8 tháng đạt 101.325 doanh nghiệp, tăng 24,2% so với cùng kỳ năm 2021.
Tổng số vốn đăng ký bổ sung vào nền kinh tế trong 8 tháng đầu năm 2022 cũng tăng 36,1% so với cùng kỳ năm 2021 (3,638 triệu tỷ đồng); trong đó, vốn đăng ký của doanh nghiệp mới thành lập tăng 0,3% so với cùng kỳ (1,136 triệu tỷ đồng) và vốn đăng ký tăng thêm tăng 62,6% so với cùng kỳ (2,502 triệu tỷ đồng).
“Việc có hơn 35.000 lượt doanh nghiệp tăng vốn mở rộng sản xuất kinh doanh với hơn 2,5 triệu tỷ đồng là tín hiệu đáng mừng vì các doanh nghiệp này đang hoạt động và trải nghiệm thực tế môi trường kinh doanh. Các doanh nghiệp nhìn thấy nhiều cơ hội kinh doanh và mở rộng sản xuất để đáp ứng nhu cầu thị trường”, Cục Quản lý đăng ký kinh doanh nhận định.
Phát biểu tại Diễn đàn Kinh tế - Xã hội Việt Nam 2022 với chủ đề ‘’Củng cố nền tảng kinh tế vĩ mô, thúc đẩy phục hồi và phát triển bền vững’’ diễn ra sáng 18/9, bà Hà Thu Thanh, Chủ tịch HĐTV Công ty tư vấn và kiểm toán Deloitte Việt Nam khẳng định sau 2 năm lao đao vì dịch bệnh (tốc độ doanh nghiệp đóng cửa tạm thời năm 2020 và 2021 lần lượt là 71% và 26% - biểu đồ dưới), niềm tin của doanh nghiệp vào việc điều hành chính sách kinh tế - tài chính, sự ổn định chính trị, kiểm soát lạm phát của Chính phủ là một trong những động lực để các doanh nghiệp mới tham gia vào thị trường trong năm nay.
Tuy nhiên, cũng theo bà Thanh, tỷ lệ doanh nghiệp tạm dừng hoạt động kinh doanh hay tỷ lệ gia tăng vốn kinh doanh của doanh nghiệp là chưa đáp ứng được kỳ vọng của nhóm nghiên cứu từ Deloitte cho giai đoạn phục hồi kinh tế sắp tới. Trong đó, doanh nghiệp đang phải tiếp tục đối mặt với nhiều thách thức lớn.
Cạn dòng tiền vẫn là khó khăn lớn nhất của doanh nghiệp
Theo bà Thanh, trong hai năm ứng phó với tác động của đại dịch, phần lớn nguyên nhân khiến các doanh nghiệp phải tạm đóng cửa hay giải thể là do khó khăn về tài chính, đặc biệt là dòng tiền để duy trì các hoạt động thường xuyên. Cho đến thời điểm hiện tại, đây vẫn là một trong những thách thức lớn nhất với doanh nghiệp Việt.
Bà Thanh dẫn lại một khảo sát gần đây nhất của Ban IV dựa trên phản ánh từ các tổ chức, hiệp hội cho thấy hầu hết các doanh nghiệp vẫn đứng trước khó khăn tài chính, đặc biệt là việc thiếu vốn lưu động: các doanh nghiệp không có hoặc có ít doanh thu nhưng vẫn phải đảm bảo chi trả tiền nợ, lãi vay ngân hàng cùng các khoản khác để duy trì, vận hành doanh nghiệp ở mức độ tối thiểu.
Cùng đó là thách thức từ chi phí đầu vào cho sản xuất tăng cao trong bối cảnh tỷ giá USD/VND đã tăng từ đầu năm và tiếp tục chịu sức ép tăng trong thời gian tới, làm tăng giá nhập khẩu nguyên liệu đầu vào cho sản xuất đối với các doanh nghiệp nhập khẩu thanh toán bằng USD, chi phí vận tải và logistics tiếp tục tăng… Trong khi đó, với các thị trường như EU, Nhật Bản, Hàn Quốc…, việc VND tăng giá theo USD khiến các đồng tiền nội tệ ở những thị trường này bị mất giá so với VND, làm giảm lợi thế cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu.
Ngoài ra, số lượng và lợi nhuận của đơn hàng sụt giảm do sự thắt chặt chi tiêu của người dân của các nền kinh tế lớn như Mỹ, hoặc các nước Châu Âu trong bối cảnh lo ngại rủi ro suy thoái kinh tế toàn cầu.
Bên cạnh khó khăn dòng tiền, vấn đề lao động cũng là một thách thức lớn. “Các doanh nghiệp bước vào giai đoạn phục hồi sau đại dịch thì lại gặp khó khăn trong việc tuyển dụng lao động – thiếu hụt cả số lượng và thiếu hụt kỹ năng của người lao động. Việc thiếu hụt kỹ năng đã và đang cũng là một trở ngại lớn đối với hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam, nhất là các doanh nghiệp đã tham gia hoạt động xuất, nhập khẩu, cùng với đó là sự cạnh tranh về lao động lành nghề, lao động chất lượng cao đi kèm với quá trình chuyển dịch đầu tư vào Việt Nam ngày càng khốc liệt”, bà Thanh nói.
Về khía cạnh đổi mới sáng tạo, doanh nghiệp đến nay vẫn chưa thực sự ưu tiên ngân sách, nguồn lực cho công tác R&D để nâng cao năng suất, cải thiện năng lực cạnh tranh. Nguyên nhân chủ yếu do đại đa số doanh nghiệp trong nước là doanh nghiệp vừa và nhỏ, nên việc tiếp cận vốn và công nghệ vẫn còn hạn chế.
Cùng đó, doanh nghiệp còn gặp vướng trong việc tiếp cận thông tin cần thiết phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh, thông tin thị trường như giá cả, loại mặt hàng, thị hiếu, các rào cản kỹ thuật của thị trường có nhập khẩu hàng Việt Nam… Chẳng hạn trong bối cảnh các nước tham gia tại COP26 cùng cam kết đưa mức giảm phát thải ròng carbon về 0 vào năm 2050, một số thị trường lớn như EU, Mỹ đang đề xuất áp dụng “Cơ chế điều chỉnh biên giới các bon (viết tắt là CBAM)”, trong đó đưa ra các rào cản kỹ thuật, các quy định liên quan giảm phát thải buộc doanh nghiệp các nước xuất khẩu vào các thị trường này phải tuân theo và có thể đánh thuế các bon trong trường hợp các nước xuất khẩu không đáp ứng các quy định. Điều này cần có sự hỗ trợ tiếp cận thông tin cho các doanh nghiệp.
Tăng sức chống chịu cho doanh nghiệp
Tại Diễn đàn, bà Thanh nhận định con số hơn 59.609 doanh nghiệp tạm dừng kinh doanh có thời hạn, với mức tăng là 38% so với cùng kỳ năm trước, có thể một phần do hệ quả của dịch bệnh Covid-19 kéo dài, các doanh nghiệp không còn khả năng duy trì khả năng cạnh tranh hoặc cũng có thể do chính sự yếu kém trong nội tại quản trị của doanh nghiệp. Vì thế, bài toán nâng cao năng lực cạnh tranh, sức chống chịu của doanh nghiệp trước các cú sốc và các thách thức bất ổn là vấn đề mấu chốt trong giai đoạn phục hồi kinh tế.
Đề xuất giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp trong tình hình hiện nay, bà Thanh gợi ý một số kiến nghị.
Đầu tiên, liên quan đến yếu tố môi trường, cơ quan quản lý cần cơ chế cho các doanh nghiệp đang đi tiên phong trong việc ứng phó với thay đổi và tác động môi trường, chẳng hạn ưu đãi về thuế hay mặt bằng sản xuất để thúc đẩy kinh tế tuần hoàn…
Thứ hai, hướng tới xây dựng thị trường tài chính lành mạnh và bền vững, thông qua các biện pháp như nâng hạng thị trường chứng khoán…
Cuối cùng, cần quan tâm chăm lo tới đời sống của người lao động, coi đó như một giải pháp thúc đẩy nguồn lực xã hội và hướng tới phát triển bền vững.
Dẫn số liệu do ông Mạc Quốc Anh, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa TP.Hà Nội (HANOISME) - Viện trưởng Viện kinh tế và Phát triển doanh nghiệp chia sẻ trên Báo Lao động vào tháng 3/2022, bà Thanh cho hay hàng năm, các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam đóng góp khoảng 40% GDP, nộp ngân sách nhà nước 30%, đóng góp giá trị sản lượng công nghiệp 33%, giá trị hàng hóa xuất khẩu 30% và thu hút gần 60% lao động. Nhưng doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng dễ bị tổn thương.
"Khi các doanh nghiệp vừa và nhỏ rút lui khỏi thị trường vì họ không có khả năng vượt qua được khủng hoảng thì vốn doanh nghiệp đã đầu tư bị phá hủy, người lao động bị mất việc làm, mức độ bất bình đẳng trong xã hội có thể tăng lên. Chính vì vậy việc Chính phủ có thể cân nhắc các biện pháp giúp doanh nghiệp có thể tăng khả năng chống chịu trước những cú sốc", bà Thanh nói thêm.