Sửa đổi Nghị định 20: Cần tạo sân chơi bình đẳng giữa các doanh nghiệp
(DNVN) - Bộ Tài chính đang nghiên cứu sửa đổi Nghị định số 20/2017/NĐ-CP theo hướng nâng mức trần lãi vay được khấu trừ thuế từ 20% hiện nay lên 30%. Nhiều chuyên gia e ngại sửa đổi như vậy sẽ khiến cơ quan quản lý nhà nước thất bại trong việc phòng chống hành vi chuyển giá của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI).
Nghị định (NĐ) 20 ra đời với mục tiêu cao nhất là chống chuyển giá/chuyển nợ với mục đích trốn tránh thuế. Đối tượng điều chỉnh của NĐ 20 là các doanh nghiệp (DN) có giao dịch liên kết. Liên quan đến việc chống chuyển nợ/lãi vay, khoản 3, điều 8 của NĐ 20 quy định tổng chi phí lãi vay phát sinh trong kỳ chỉ được khấu trừ thuế nếu không vượt quá 20% tổng lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh cộng với chi phí lãi vay và chi phí khấu hao trong kỳ (EBITDA).
Điều khoản trên của NĐ 20 gặp khá nhiều phản ứng từ các DN trong nước vốn dựa nhiều vào vay nợ, đặc biệt là các tập đoàn, tổng công ty nhà nước có giao dịch liên kết giữa các thành viên. Hiện, Bộ Tài chính đang đề xuất dự thảo nâng mức trần khống chế chi phí lãi vay lên 30%.
Đánh giá về vấn đề này, TS. Phạm Thế Anh, Kinh tế Trưởng của Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) cho rằng, Chính phủ không nên nâng mức khống chế tỉ lệ lãi vay/EBITDA được khấu trừ thuế từ 20% lên 30%. Thậm chí, trong tương lai Bộ Tài chính nên có lộ trình giảm tỉ lệ này xuống thấp hơn nữa và tiến tới loại bỏ hoàn toàn việc khấu trừ lãi vay giữa các công ty liên kết. Bởi vì, ngoài việc hạn chế hành vi trốn tránh thuế, việc hạn chế mức trần lãi vay được khấu trừ thuế còn làm tăng khả năng cạnh tranh của các DN trong nước với các DN FDI vốn có lợi thế hơn trong việc tiếp cận nguồn vốn trên thị trường quốc tế hoặc từ các công ty mẹ ở nước ngoài. Tương tự, quy định này cũng hạn chế việc đi vay của các tập đoàn, tổng công ty rồi cho vay lại với các thành viên, giúp làm tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp tư nhân với DN nhà nước vốn có lợi thế hơn về khả năng tiếp cận các nguồn vốn.
Cụ thể hơn, theo TS. Thế Anh, có thể thấy chi phí lãi vay/EBITDA của khu vực DN nhà nước cao hơn hẳn so với khu vực FDI, cụ thể là 11,2% so với 5% trung bình trong giai đoạn 2013 - 2016. Trong khi đó, khu vực ngoài nhà nước, mặc dù có hệ số nợ/vốn chủ sở hữu chỉ xấp xỉ khu vực doanh nghiệp nhà nước, nhưng lại có chi phí lãi vay/EBITDA lớn nhất, có năm xấp xỉ khoảng 30%. Điều này có thể là do khu vực này phải tiếp cận vốn vay với lãi suất cao hơn hoặc kém hiệu quả hơn trong hoạt động sản xuất kinh doanh vì nhiều lý do khác nhau.
Hơn nữa, thống kê số lượng DN có chi phí lãi vay/EBITDA theo các mức độ khác nhau thì có kết quả như sau. Ví dụ, vào năm 2016, số doanh nghiệp có tỷ lệ lãi vay/EBITDA > 20% của khu vực doanh nghiệp nhà nước là 396 DN, của khu vực FDI là 673 DN, của khu vực ngoài nhà nước là 37956 DN.
Như vậy, DN ngoài nhà nước là khu vực doanh nghiệp có tỉ lệ lãi vay/EBITDA trung bình là lớn nhất. Tuy nhiên, đây lại là khối DN ít có quan hệ liên kết nhất nên ít chịu sự điều chỉnh của Nghị định 20. DN nhà nước cũng là nhóm DN có nhiều hoạt động liên kết nhất thông qua mô hình tập đoàn và tổng công ty. Đây chính là lý do tại sao Nghị định 20 gặp nhiều sự phản đối từ nhóm DN này.
Trong khi đó, khu vực FDI có chi phí lãi vay quốc tế/lãi vay trong nước bằng khoảng 1,2 lần trong giai đoạn 2013 - 2016. Điều này chứng tỏ khu vực FDI chủ yếu có vay nợ từ thị trường quốc tế, rất có thể là từ các công ty liên kết ở nước ngoài. Do vậy, số DN thực sự chịu sự điều chỉnh của Nghị định 20 trong khu vực FDI còn thấp hơn nữa. Khối này hầu như cũng không có phản ứng gì kể từ khi NĐ 20 có hiệu lực.
Như vậy, nếu nới lỏng trần lãi vay/EBITDA được khấu trừ thuế lên mức 30%, TS. Thế Anh e ngại NĐ 20 sửa đổi sẽ thất bại trong việc phòng chống hành vi chuyển giá của các doanh nghiệp FDI.
Do đó, theo TS. Thế Anh để tạo thuận lợi cho DN, Việt Nam nên điều chỉnh một số ràng buộc trong NĐ 20. Ví dụ như, chi phí lãi vay từ các hợp đồng vay nợ kí kết trước thời điểm Nghị định này có hiệu lực nên được khấu trừ toàn bộ để tránh sự bị động của các DN; cho phép các DN chuyển phần chi phí lãi vay chưa được khấu trừ vào một số năm tiếp theo (có giới hạn), thời hạn kết chuyển có thể là 5 năm và chỉ áp dụng với những DN mới thành lập hoặc có đầu tư lớn vượt một con số nhất định; hay chi phí lãi vay từ các giao dịch vay nợ độc lập nên được miễn trừ hoàn toàn và không chịu sự điều chỉnh của Nghị định 20.
Bên cạnh đó, NĐ 20 nên giới hạn trong mục tiêu chống chuyển giá thông qua các giao dịch vay nợ từ các công ty liên kết. Việc chống xói mòn cơ sở thuế và chống vốn mỏng (cũng thông qua các công cụ trần chi phí lãi vay/EBITDA được khấu trừ thuế và/hoặc trần hệ số nợ/vốn chủ sở hữu) nên được đề xuất trong một quy định khác để đảm bảo quy định đó bao phủ được mọi DN, bao gồm công ty trong các tập đoàn đa quốc gia, tập đoàn trong nước, và cả các công ty độc lập, TS. Thế Anh nhấn mạnh.