‘Với kịch bản cao, tăng trưởng GDP cả năm có thể đạt mục tiêu 7%’
Nhiều cơ hội và thách thức đan xen
Kịch bản tăng trưởng trên được VERP đưa ra tại Toạ đàm “Đối thoại chính sách: Phục hồi tăng trưởng triển vọng và thách thức” tổ chức sáng 15/10.
Tại toạ đàm, các chuyên gia đánh giá kết thúc quý III, nền kinh tế Việt Nam đã phục hồi tương đối tốt trong sự lạc quan về tăng trưởng chung của kinh tế thế giới cuối 2024 và năm 2025. Tăng trưởng GDP sau 9 tháng đạt 6,82%, tăng hơn 1,5 lần so với mức 4,4% cùng kỳ năm ngoái với sự đóng góp chủ yếu từ khu vực công nghiệp và dịch vụ.
Ở phía tổng cầu, thương mại trên đà hồi phục và dòng vốn FDI tích cực là động lực tăng trưởng chính. Xuất nhập khẩu hàng hóa tăng nhanh hơn hơn so với dự kiến, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu đạt 578,5 tỷ USD, tăng 16,3% so với cùng kỳ, với xuất siêu đạt 20,8 tỷ USD - mức xuất siêu khá tích cực trong giai đoạn 2020 - 2024. Tuy nhiên, chi tiêu của người tiêu dùng vẫn thấp hơn mức trước đại dịch và áp lực lạm phát trong nửa đầu năm 2024 cũng đã làm giảm tốc độ tăng trưởng của vốn.
Thu ngân sách nhà nước (NSNN) vượt kế hoạch trong khi chi tiêu công giảm so với cùng kỳ năm 2023, dẫn đến ngân sách tiếp tục đạt thặng dư cao, tạo dư địa cho các chính sách tài khoá tiếp tục trong năm 2024 như các chính sách miễn, giãn, giảm thuế, nhất là trong bối cảnh các ngành, lĩnh vực chịu thiệt hại của cơn bão Yagi.
Thương mại tăng trưởng tích cực, vốn FDI thực hiện đạt mức cao kỷ lục, du lịch phục hồi mạnh mẽ, tỷ giá USD tại các ngân hàng thương mại trong nước đã liên tục giảm, với mức giá thấp hơn nhiều so với trần do NHNN quy định. Tốc độ tăng cung tiền và tăng trưởng tín dụng phục hồi khá tốt, góp phần tích cực vào thúc đẩy tăng trưởng và đầu tư, mặc dù vẫn thấp hơn nền trung bình trước đại dịch Covid-19. NHNN vẫn tiếp tục thực hiện các chính sách tiền tệ linh hoạt tương đối thành công giai đoạn vừa qua để giảm các cú sốc và can thiệp thanh khoản, giúp hạ nền lãi suất, hỗ trợ chi phí vốn cho nền kinh tế mà không cần can thiệp lãi suất điều hành.
Mặc dù nền kinh tế có nhiều điểm sáng tích cực, tuy nhiên vẫn còn có những rủi ro và thách thức ở phía trước. Các chỉ số quản trị mua hàng PMI suy giảm và xuống dưới 50 điểm trong tháng 9. Tỷ lệ doanh nghiệp rút lui so với doanh nghiệp gia nhập thị trường vẫn ở xu hướng cao. Tiêu dùng trong nước lẫn giải ngân đầu tư công chưa đạt được như kỳ vọng.
Nhìn xa hơn, xu thế phân mảnh kinh tế - chính trị toàn cầu, hiện tượng thời tiết cực đoan do biến đổi khí hậu khiến cầu bên ngoài có thể suy giảm. Chi phí đẩy khiến năng lực cạnh tranh xuất khẩu và khả năng tham gia sâu hơn chuỗi giá trị toàn cầu gặp nhiều thách thức. Trong khi đó, các yếu tố đầu vào trong sản xuất gặp nhiều rào cản cũng như tình thế khó khăn trong chuyển dịch mô hình tăng trưởng, đổi mới môi trường kinh doanh và cải cách thể chế mặc dù đạt một số tiến bộ nhưng vẫn còn chậm, tiềm ẩn nhiều rủi ro trong đầu tư, kinh doanh.
Trong kịch bản cao, tăng trưởng GDP năm nay đạt mục tiêu 7%
Báo cáo từ VEPR nêu rõ, trong bối cảnh kinh tế toàn cầu đang trên đà phục hồi, các tổ chức lớn như IMF, OECD, WB, UN và Euromonitor đều có những điều chỉnh tích cực cho dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu trong nửa cuối năm 2024, thể hiện sự lạc quan hơn về triển vọng kinh tế thế giới.
Tuy nhiên, sự phục hồi tăng trưởng vẫn sẽ chậm chạp ở các nền kinh tế phát triển. Tăng trưởng GDP ở các nền kinh tế phát triển dự kiến sẽ duy trì ở mức 1,6% vào năm 2024 và 1,7% vào năm 2025, tương tự ở như mức năm 2023.
Tại Mỹ, lạm phát giá dịch vụ kéo dài, nợ tiêu dùng cao, thị trường lao động hạ nhiệt và sự bất ổn chính trị liên quan đến cuộc bầu cử tháng 11 sắp tới sẽ gây áp lực lên tăng trưởng kinh tế Mỹ trong nửa cuối năm 2024 và năm 2025. Ở khu vực đồng Euro, sự phục hồi kinh tế vẫn yếu nhất trong số các nền kinh tế quan trọng, với tăng trưởng GDP thực ước tính đạt 0,9% vào năm 2024 và 1,5% vào năm 2025.
Khu vực ASEAN+3 dự kiến sẽ tăng trưởng 4,2% vào năm 2024. Đây là một sự điều chỉnh giảm nhẹ so với dự báo Cập nhật hồi tháng 7 của AMRO là 4,4% chủ yếu là do điều chỉnh đối với Trung Quốc (tăng trưởng không đạt được như kỳ vọng trong Quý II) và Việt Nam (ảnh hưởng từ cơn bão Yagi). Dự báo năm 2024-2025, hoạt động thương mại, tiêu dùng trong nước mạnh mẽ và sự phục hồi liên tục của du lịch là những động lực chính cho sự tăng trưởng của khu vực.
Còn tại Việt Nam, từ quý III/2023 đến quý II năm nay, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) liên tục tăng và vượt mốc 4% vào quý II, tiến gần đến ngưỡng mục tiêu 4,5% mà Chính phủ đã đề ra. Điều này tác động trực tiếp đến sức mua của người dân, và là nguyên nhân dẫn đến suy giảm tiêu dùng nội địa. Ngoài ra, những cú sốc ngắn hạn do giá thực phẩm và các mặt hàng thiết yếu tăng cao tạo áp lực lớn lên ngân sách hộ gia đình, khiến khả năng tiêu dùng bị thu hẹp.
"Có thể thấy rằng, tăng trưởng GDP thực tế của Việt Nam so với dự báo của tổ chức thấp nhất thường có mức chênh lệch là 0,5%-1%. Từ đó, chúng tôi đưa ra hai kịch bản cao và thấp. Với kịch bản cao, tăng trưởng sẽ Quý IV sẽ đi ngang với mức 7,4%; kịch bản thấp, tăng trưởng Quý IV sẽ dưới mức 7%", ông Việt nói.
Với kịch bản thấp, tốc độ tăng trưởng Quý IV dưới mức 7%, kết hợp với độ lệch dự báo tăng trưởng của các tổ chức, VEPR dự báo tăng trưởng cả năm 2024 sẽ dao động mức từ 6,84%. Với kịch bản cao, tăng trưởng cả năm 2024 dự kiến sẽ đạt 7%.
Cần quan tâm nhiều hơn đến thị trường nội địa
Trao đổi thêm với báo chí về những thách thức cho sự tăng trưởng kinh tế Việt Nam, TS. Nguyễn Quốc Việt đánh giá: “Với những bối cảnh phức tạp của địa chính trị trên thế giới, sự phân mảnh có thể kéo theo những xu thế thương mại không bền vững, đặc biệt là việc không không đi theo xu thế toàn cầu hóa có thể dẫn đến sự cạnh tranh hoặc những xu thế làm giảm năng lực cạnh tranh của các nền kinh tế mới nổi, trong đó có Việt Nam. Khi xu thế “friendshoring” hoặc “nearshoring” trong đầu tư và thương mại để giảm thiểu các rủi ro, trong đó có sự xung đột toàn cầu có thể khiến cho kinh tế của Việt Nam không có cơ hội tiếp tục mở rộng và chen chân sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Bên cạnh đó, chúng ta cũng thấy một khía cạnh rủi ro khác, đặc biệt là những vấn đề biến đổi khí hậu làm cho các chi phí đẩy cao trong hoạt động thương mại và xuất khẩu, khiến giá hàng hóa của Việt Nam tăng lên, kèm theo đó là những yếu tố liên quan đến các sự biến động của chính sách tiền tệ hoặc chính sách tài chính của các nền kinh tế lớn trên thế giới cũng khiến chúng ta phải theo dõi kỹ, nếu không những tác động này cũng sẽ làm giảm động lực và khả năng cạnh tranh của các hàng xuất khẩu Việt Nam (động lực tăng trưởng chính)”.
Đề cập đến sự tăng trưởng của thị trường nội địa, ông Việt cho rằng vẫn còn các yếu tố “chưa bền vững” và “không được tăng trưởng mạnh mẽ như kỳ vọng so với giai đoạn trước Covid-19”.
“Nếu trừ đi yếu tố lạm phát thì tăng trưởng của cầu tiêu dùng trong nước chỉ khoảng 5%, bằng một nửa so với giai đoạn trước Covid-19. Như vậy để thực sự khắc phục những điểm bất ổn của nhu cầu tiêu dùng thế giới cũng như những bất ổn của nền kinh tế toàn cầu thì chúng ta phải thực sự lưu tâm đến việc thúc đẩy sự phát triển và tăng trưởng bền vững của thị trường trong nước, trong đó bao gồm cả các lĩnh vực về du lịch, mua sắm,... làm sao để kích kích hoạt khả năng chi tiêu của người dân”, ông Việt nhấn mạnh.