COVID-19 thúc đẩy nhanh phát triển ngân hàng số
(DNVN) - Dịch COVID-19 ảnh hưởng đến tất cả mọi ngành nghề là điều không thể phủ nhận. Tuy nhiên, xét ở một góc độ tích cực, đối với lĩnh vực ngân hàng, dịch COVID-19 lại đang thúc đẩy mạnh mẽ cuộc đua của các ngân hàng và các doanh nghiệp công nghệ tài chính trong tiến trình triển khai số hóa dịch vụ và thanh toán điện tử.
Tại tọa đàm trực tuyến: “Ngân hàng số và thanh toán điện tử: gợi mở từ khủng hoảng COVID–19” do tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp tổ chức chiều 21/5, TS Vũ Tiến Lộc – Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho biết, COVID-19 đã gây ra nhiều tác động vô cùng nguy hại cho nền kinh tế và xã hội nhưng ở chiều ngược lại đây cũng chính là động lực thúc đẩy sự thay đổi trong đời sống và nền kinh tế.
TS. Vũ Tiến Lộc cho rằng, việc tái cấu trúc nền kinh tế sau đại dịch có rất nhiều việc phải làm, một trong những việc rất quan trọng đó là phải thực hiện số hóa nền kinh tế và số hóa doanh nghiệp, đẩy mạnh thương mại điện tử. Yêu cầu số hóa và quốc tế hóa đang trở thành những yêu cầu quan trọng để thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp. Số hóa và quốc tế hóa đảm bảo sự phát triển hiệu quả hơn, bền vững hơn của nền kinh tế và của các doanh nghiệp.
Trong các nền kinh tế ở Đông Nam Á, Việt Nam là một trong những nền kinh tế có lợi thế trong phát triển kinh tế số. Ông Lộc cho biết, Việt Nam có hạ tầng số phát triển khá mạnh so với các nền kinh tế trong khu vực. “Đó là lợi thế để chúng ta có thể chuyển nền kinh tế số sang không gian số, thúc đẩy số hóa trong các doanh nghiệp”, ông Lộc nói.
Thống kê cho thấy, Việt Nam hiện đã có 70 tổ chức tín dụng và chưa kể các đơn vị trung gian thanh toán như ví điện tử đã triển khai cung ứng các dịch vụ thanh toán qua Internet, cung ứng các dịch vụ thanh toán qua điện thoại di động. Giá trị giao dịch tài chính qua kênh Internet đã đạt trên 7 triệu tỷ đồng và 300 nghìn tỷ đồng giao dịch qua điện thoại di động.
Theo TS. Lộc, những con số này bước đầu có ý nghĩa, tuy nhiên nếu so với quy mô của nền kinh tế, lượng giao dịch như vậy là nhỏ. Nếu so với mô hình ngân hàng truyền thống thì ngân hàng số và ví điện tử có nhiều điểm khác biệt và có lợi thế cạnh tranh so với mô hình truyền thống. Tất cả các kênh giao tiếp với khách hàng được thực hiện trực tuyến thông qua các thiết bị di động với một giao diện phong phú, trực quan và gắn kết, tạo sự gắn bó với khách hàng.
Mặc dù Việt Nam đã có những tiến bộ nhất định về xây dựng hành lang pháp lý cho dịch vụ thanh toán số nhưng vẫn còn trở ngại về mặt pháp lý, thủ tục giấy tờ trong hệ thống các văn bản hiện hành, khiến thanh toán số chưa thể mở rộng nhanh và dễ dàng tới nhóm khách hàng ưa tiện lợi, ông Lộc nhấn mạnh.
Còn ông Phạm Tiến Dũng, Vụ trưởng Vụ Thanh toán (Ngân hàng Nhà nước) nhận định, nhìn từ đại dịch COVID-19 và một số định hướng phát triển ngân hàng số trong thời gian tới, việc thanh toán điện tử có rất nhiều cơ hội với những tiện lợi cụ thể. Đơn cử, tại Việt Nam, tốc độ tăng trưởng về mobile banking là 200% cho thấy chúng ta đang tăng trưởng rất tốt. Thống kê hiện có khoảng 30 triệu người sử dụng hệ thống thanh toán ngân hàng mỗi ngày.
Tuy nhiên rào cản lớn nhất là thói quen, do đó, vẫn cần cú hích lớn để thay đổi thói quen người dùng. Tác động cần thiết ở đây là chất lượng dịch vụ phải tăng cường, thứ hai là hướng dẫn đào tạo, thứ ba thực hiện cài đặt và sử dụng dịch vụ mobile banking thật đơn giản để thay đổi thói quen người dùng.
Ông Dũng khẳng định, các ngân hàng cần xây dựng được hệ sinh thái thông minh. Ví dụ như câu chuyện mà Điện lực đang làm xây dựng hệ thống kết nối với ngân hàng để khách hàng thực hiện giao dịch. Bên cạnh đó, trong ngân hàng số và thanh toán số không thể không nhắc tới quan hệ hợp tác-ngân hàng-Fintech. Hiện có tới 81% tổ chức tín dụng lựa chọn mô hình hợp tác giữa Ngân hàng – Fintech để cùng phát triển.
Về cơ bản, Việt Nam đã có khuôn khổ pháp lý cho hoạt động thanh toán số, vấn đề đặt ra là phát triển những mô hình mới. Tuy nhiên, theo ông Dũng, cần hoàn thiện hệ thống hạ tầng công nghệ số, trong đó, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hạ tầng công nghệ ngành ngân hàng; tăng cường tích hợp, kết nối hạ tầng, ứng dụng của ngành ngân hàng với các ngành, lĩnh vực dịch vụ khác để mở rộng hệ sinh thái số.
Ngoài ra, chuyển đổi số, phát triển ngân hàng số phải gắn với thúc đẩy tài chính toàn diện. Theo đó, triển khai các nội dung liên quan đến phát triển ngân hàng số, hợp tác Ngân hàng - Fintech, ứng dụng CNTT trong khuôn khổ Chiến lược quốc gia về Tài chính toàn diện; đồng thời cung ứng dịch vụ ngân hàng an toàn, thuận tiện với giá cả hợp lý cho người dân chưa có tài khoản ngân hàng, đặc biệt người dân khu vực vùng sâu, vùng xa, cũng như chú trọng nâng cao hiểu biết, kỹ năng tài chính.
Từ những đề xuất trên, đại diện Ngân hàng Nhà nước kiến nghị: Việt Nam đẩy nhanh hoàn thiện cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, cho phép chia sẻ, kết nối mở với các ngành dịch vụ như ngân hàng, viễn thông, bảo hiểm... Bởi nếu không xác định được chủ thể của giao dịch đó thì chúng ta không thể phát triển được thanh toán điện tử. Đồng thời, cần xây dựng quy định về bảo vệ dữ liệu người dùng, định danh số, hoàn thiện quy định bảo mật giao dịch, an ninh thông tin.