Giải bài toán tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh dịch Covid – 19
GDP 6 tháng đầu năm thấp hơn mục tiêu đề ra
Mục tiêu phấn đấu năm 2021 của Chính phủ theo Nghị quyết số 01/NQ-CP đó là tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) khoảng 6,5% (kế hoạch năm 2021 Quốc hội giao là khoảng 6%).
Tuy nhiên, theo báo cáo tình hình kinh tế - xã hội quý II và 6 tháng đầu năm của Tổng cục Thống kê cho biết GDP 6 tháng đầu năm 2021 tăng 5,64%, cao hơn tốc độ tăng 1,82% của 6 tháng đầu năm 2020 nhưng thấp hơn tốc độ tăng 7,05% và 6,77% của cùng kỳ năm 2018 và 2019. Mức tăng tưởng này thấp hơn so với dự báo đầu quý của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Chính vì vậy để đạt mục tiêu tăng trưởng GDP cả năm 2021 là 6,5%, tốc độ tăng trưởng những tháng cuối năm phải đạt trên 7%. Đây là thách thức không nhỏ trong khi dịch Covid-19 vẫn còn diễn biến phức tạp và đang tác động mạnh tới những “đầu tàu” dẫn dắt tăng trưởng...
Báo cáo tại phiên họp thường kỳ Chính phủ tháng 7 vừa qua, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cũng chỉ ra những khó khăn khách quan và nội tại như: Trong 6 tháng đầu năm 2021, kinh tế thế giới chứng kiến sự phục hồi không đồng đều, các quốc gia phát triển phục hồi khá mạnh mẽ, ngược lại các quốc gia đang phát triển phục hồi chậm.
Đặc biệt, dịch bệnh COVID-19 diễn biến phức tạp, khó lường, làm ảnh hưởng đến nguồn cung nguyên liệu, đứt gãy chuỗi cung ứng, giá cả hàng hóa tăng cao, gây khó khăn cho kiềm chế lạm phát…
Mặc dù tăng trưởng kinh tế 6 tháng đầu năm đã đạt được con số đáng khích lệ, nhưng chưa đạt như kỳ vọng: Tốc độ tăng GDP 6 tháng đầu năm 2021 đạt 5,64%, cao hơn nhiều so với cùng kỳ năm 2020 (1,82%) nhưng vẫn thấp hơn 0,58 điểm phần trăm so với kịch bản tại Nghị quyết 01/NQ-CP (6,22%) của Chính phủ, tạo áp lực lớn cho các tháng, quý còn lại năm 2021.
Thu hút vốn FDI vẫn ở mức thấp, tổng vốn đăng ký 6 tháng năm 2021 giảm 2,6% so với cùng kỳ; trong đó, số vốn thu hút qua hình thức góp vốn, mua cổ phần giảm đến 54,3%.
Số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường 6 tháng đầu năm lên tới 70,2 nghìn doanh nghiệp, tăng 24,9% so với cùng kỳ, phản ánh sức chống chịu của doanh nghiệp suy giảm…
Ước giải ngân vốn đầu tư nguồn ngân sách nhà nước đến ngày 30/6/2021 là 133,89 nghìn tỉ đồng, giảm so với cùng kỳ năm trước...
Tuy nhiên, Bộ trưởng Bộ KHĐT Nguyễn Chí Dũng cho biết, kinh tế thế giới đang khởi sắc, tăng trưởng kinh tế thế giới đang ổn định trở lại, bổ trợ cho tăng trưởng của Việt Nam. Do vậy, Bộ KHĐT kiến nghị giữ nguyên các mục tiêu tăng trưởng đã đề ra, phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng ở mức cao nhất từ 6-6,5%.
Bộ KHĐT cũng đề nghị 2 kịch bản tăng trưởng kinh tế. Trong đó, kịch bản thứ nhất là, để đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế 6%, quý III cần đạt mức tăng trưởng là 6,2% (thấp hơn Nghị quyết 01/NQ-CP 0,5 điểm phần trăm), quý IV tăng 6,5% (thấp hơn Nghị quyết 01/NQ-CP 0,2 điểm phần trăm).
Kịch bản thứ hai là, để đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế 6,5%, quý III phải đạt mức tăng trưởng là 7% (cao hơn Nghị quyết 01/NQ-CP 0,3 điểm phần trăm) và quý IV tăng 7,5% (cao hơn Nghị quyết 01/NQ-CP 0,8 điểm phần trăm).
Cần đánh giá lại ảnh hưởng của làn sóng dịch covid – 19 lần thứ 4
Đánh giá về những kết quả kinh tế nửa đầu của năm 2021, theo PGS.TS Trần Hoàng Ngân, trong bối cảnh dịch bùng phát trở lại lần thứ 4 tại một số địa phương, đặc biệt tại các “đầu tàu” kinh tế của cả nước với diễn biến phức tạp, khó lường của biến thể Delta, kết quả tăng trưởng 6 tháng đầu năm tăng 5,64%, tương đương khoảng 4 triệu tỷ đồng và thu ngân sách đạt 775.000 tỷ đồng, gần 60% dự toán cả năm là con số rất ấn tượng. Tuy nhiên, cũng phải nhìn nhận kết quả tăng trưởng 6 tháng đầu năm cao là so sánh với cùng kỳ năm 2020, năm có mức tăng thấp nhất trong 35 năm qua.
PGS.TS Trần Hoàng Ngân cho rằng: “Không ai không nhìn nhận đại dịch COVID-19 kéo dài hơn 18 tháng vừa qua đã tác động rất lớn đến tăng trưởng kinh tế theo hướng tiêu cực nhiều hơn tích cực, đồng thời cũng tác động đến hành vi tiêu dùng, thái độ tiêu dùng, quản lý điều hành doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong quá trình đó, chúng ta đã và đang thích nghi với cuộc sống có đại dịch. Chẳng hạn như sự trỗi dậy của thương mại điện tử, tầm quan trọng của kinh tế số, chính quyền điện tử. Thậm chí trong điều hành, quản trị doanh nghiệp, các lãnh đạo doanh nghiệp đã có bước chựng lại để nhìn nhận thực trạng doanh nghiệp cả về hạ tầng, nguồn nhân lực và chiến lược kinh doanh. Từ đó, doanh nghiệp từng bước điều chỉnh để thích nghi, sống chung với dịch COVID-19 trong thời gian tới”.
Do vậy, ông cho rằng các số liệu được Tổng cục Thống kê công bố đang phản ánh đúng tăng trưởng của Việt Nam và có cả những cảnh báo kịp thời.
Cũng theo Chuyên gia kinh tế, TS Cấn Văn Lực, với kết quả trên, rõ ràng mục tiêu tăng trưởng GDP không đạt kế hoạch như Nghị quyết số 01 của Chính phủ đã đề ra, đó là mong muốn quý I/2021, GDP tăng trưởng 5,12%; quý II tăng trưởng trên 6%. Tuy nhiên, kết quả tăng trưởng 6 tháng đầu năm là rất đáng khích lệ, trong bối cảnh 6 tháng qua xảy ra 2 đợt dịch tương đối nặng so với năm 2020, mặc dù chúng ta đã điều chỉnh chiến lược về kiểm soát dịch bệnh được tốt hơn.
Một số dự báo từng lạc quan cho rằng, tăng trưởng GDP năm nay sẽ đạt 7%. Tuy nhiên, tình hình dịch bệnh đang căng thẳng tại các thành phố kinh tế trọng điểm như: Hà Nội, Bắc Ninh, Bắc Giang, Đà Nẵng, TP Hồ Chí Minh và hiện vẫn diễn biến phức tạp đã đặt, cần được đánh giá kỹ hơn trong các dự báo tăng trưởng.
“Đại dịch tác động ít nhất đến 9 lĩnh vực khác nhau của kinh tế Việt Nam, nên năm nay, đạt được mức tăng trưởng 6,5% là cực kỳ khó”, Chuyên gia kinh tế, TS Cấn Văn Lực nhận định, đồng thời cho rằng, tăng trưởng kinh tế sẽ phục hồi trở lại trong những tháng cuối năm và tăng trưởng GDP cả năm 2021 có thể đạt mức từ 6,1% - 6,3%.
“Tăng trưởng kinh tế năm nay phụ thuộc vào diễn biến của dịch bệnh Covid-19, cố gắng vượt một chút so với chỉ tiêu của Quốc hội đề ra, tăng trưởng 6% cũng là thành công”, Chuyên gia kinh tế, TS Cấn Văn Lực cho hay.
Cùng quan điểm, TS. Lê Duy Bình, Giám đốc Economica Việt Nam cho rằng, làn sóng dịch Covid-19 đã quay trở lại, làm chậm tốc độ tăng trưởng kinh tế đã phần nào khôi phục trong quý I. Đáng chú ý, đợt dịch lần này ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực sản xuất của Việt Nam khi đi thẳng vào một số khu công nghiệp và trung tâm kinh tế lớn.
Theo ông Bình, khu vực hộ kinh doanh cá thể và kinh tế phi chính thức chịu ảnh hưởng rất lớn bởi sự bùng phát của dịch bệnh do phải tạm thời ngừng kinh doanh hay kinh doanh cầm chừng. Trong khi đó, khu vực kinh tế này hiện đang chiếm hơn 30% GDP của Việt Nam.
Cùng với đó, dịch bệnh lan rộng còn ảnh hưởng tới tốc độ triển khai các ý tưởng kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân, thực hiện dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài, giải ngân vốn đầu tư công và tới sự phục hồi của các ngành thuộc khu vực dịch vụ.
“Làn sóng dịch Covid-19 lần thứ 4 tác động rất lớn đến mục tiêu tăng trưởng của Việt Nam trong năm 2021. Tuy nhiên, còn quá sớm để khẳng định chúng ta có đạt được mục tiêu năm 2021 hay không. Có điều chắc chắn rằng, đạt được hay không, cũng đều phụ thuộc vào khả năng khống chế dịch bệnh và hiệu quả của việc khống chế dịch bệnh trong thời gian tới”, TS. Lê Duy Bình nêu ý kiến.
Giải pháp để hoàn thành mục tiêu tăng trưởng kinh tế
Để hoàn thành mục tiêu tăng trưởng 6,5% trong cả năm như đã đề ra, theo tính toán, tăng trưởng 6 tháng cuối năm đều phải đạt hơn 7%. Đây là một con số rất áp lực trong bối cảnh diễn biến dịch Covid-19 còn diễn biến phức tạp và nguồn cung vaccine còn hạn chế.
Để đạt mức tăng trưởng kỳ vọng, TS. Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia kinh tế cho rằng, vấn đề quan trọng nhất hiện nay là phải ưu tiên tiêm vaccine cho công nhân và giữ cho dịch bệnh không lây lan vào các doanh nghiệp, các khu công nghiệp.
“Đẩy mạnh tiêm chủng và giữ cho dịch không bùng phát là nhân tố quan trọng để tăng trưởng”, TS. Nguyễn Trí Hiếu nhấn mạnh.
Tuy nhiên, tính đến hiện tại, số người được tiêm chủng ở Việt Nam vẫn khá thấp. Điều này đặt ra thách thức trong việc thực hiện thành công “mục tiêu kép” của Việt Nam.
“Từ nay đến cuối năm, ít nhất chúng ta phải đạt được 30% dân số được tiêm chủng, sang năm 2022 tiếp tục để có thể 70-80% dân số được tiêm vaccine để tạo ra miễn dịch cộng đồng, có như vậy mới có thể khống chế được dịch bệnh để ổn định sản xuất”, TS. Nguyễn Trí Hiếu nói.
Còn theo TS. Lê Duy Bình, thời gian qua, Chính phủ và các bộ, ngành đã triển khai những chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhưng mới chỉ mang tính chất ngắn hạn, tạm thời chưa có tính căn cơ và dài hạn. Để nền kinh tế phát triển bền vững trong thời gian tới, trước hết, cần nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp để trong hoàn cảnh nào, cũng có sức chống chọi mạnh mẽ, bền bỉ hơn. Chính phủ và các bộ, ngành cần có biện pháp hỗ trợ, giúp doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh, tiếp cận được thị trường toàn cầu với vị thế cao hơn trong chuỗi giá trị toàn cầu; tạo cơ hội để hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam có giá trị gia tăng cao hơn, với hàm lượng tri thức, chất xám, công nghệ hơn.
“Chính phủ và các bộ, ngành, địa phương cần tiếp tục triển khai mạnh mẽ những giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp mang tính dài hạn, ví dụ như: cải cách thể chế, cải thiện môi trường đầu tư, thúc đẩy sự cạnh tranh công bằng, cắt giảm thủ tục hành chính, chi phí tuân thủ pháp luật, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, an toàn, khuyến khích doanh nghiệp đổi mới, sáng tạo. Bên cạnh đó, phát triển khu vực hộ kinh doanh cá thể, nâng cấp dần khu vực kinh tế không chính thức cũng cần được chú trọng”, TS. Lê Duy Bình khuyến nghị
Ngoài ra, thách thức lớn nhất trong điều hành kinh tế vĩ mô 6 tháng cuối năm của Chính phủ là không để lạm phát tăng cao. Đây là quan điểm của TS. Phạm Thế Anh, Trưởng bộ môn Kinh tế vĩ mô (Trường đại học Kinh tế Quốc dân).
Theo TS. Phạm Thế An, quan trọng nhất trong lúc này là mục tiêu phòng chống, kiểm soát dịch bệnh. Với sự lan nhanh của biến chủng vi rút Delta, thì để phát triển kinh tế được, cần phải kiểm soát được dịch bệnh. Vì vậy, một số chỉ tiêu cụ thể như tốc độ tăng trưởng GDP cần được xem là mục tiêu để phấn đấu, hơn là một mục tiêu quan trọng phải đạt được. Nhưng chính ưu tiên này cũng đang là thách thức của Chính phủ.
Thứ nhất, để kiểm soát dịch bệnh, cần nhanh chóng đạt được tốc độ tiêm chủng diện rộng. Nhìn vào con số thống kê về tiêm chủng, chúng ta đang chậm hơn, không chỉ so với các nền kinh tế chủ động nguồn cung vắc-xin, mà so với cả các nền kinh tế trong khu vực ASEAN. Thách thức về cả nguồn cung vắc-xin và việc triển khai tiêm lượng vắc-xin đã có.
Thứ hai, công tác phòng chống dịch bệnh nếu không hiệu quả, thì sẽ phát sinh thêm nhiều vấn đề.
Thực tế thời gian qua, nhiều bất cập phát sinh trong công tác phòng chống bệnh dịch đã xuất hiện, như bất cập tại các điểm khai báo y tế, đứt gãy trong lưu thông hàng hóa do các biện pháp thiếu thống nhất giữa các địa phương…
Nếu địa phương tự quyết, thì với trách nhiệm của mình, họ sẽ đưa ra các giải pháp để tối thiểu hóa rủi ro cho địa phương, nhưng cũng vì vậy mà tổn hại cho nền kinh tế sẽ bị đẩy lên.
Ví dụ, Hải Phòng yêu cầu những người đi về/đi qua Hà Nội phải cách ly y tế tập trung, chỉ xem xét giải quyết từng trường hợp cụ thể nếu có giấy xét nghiệm âm tính bằng phương pháp PCR do các cơ sở được phép xét nghiệm khẳng định Covid-19 tại Hà Nội. Với yêu cầu này, các doanh nghiệp sẽ ứng xử thế nào để được xem xét là không dễ và vì vậy chi phí thực thi sẽ đội lên.
Đó là chưa kể, yêu cầu lái xe phải test PCR không chỉ bất tiện, mà còn lãng phí, vì họ chỉ vận chuyển hàng hóa, tuân thủ các điều kiện giãn cách, không tiếp xúc với người khác... Trong bối cảnh hiện tại, nguồn lực xét nghiệm nên dành cho những đối tượng, khu vực cần thiết hơn.
Điều quan trọng hơn cả là, cảng Hải Phòng không phải của Hải Phòng mà của cả nước, không thể để đứt gãy đường ra cảng của hàng hóa, xe cộ. Đây là lý do chúng ta cần có chiến lược tổng thể, thống nhất cho các tình huống, để các địa phương có cơ sở thực thi, phối hợp với các địa phương khác.
Chính phủ, các bộ, ngành phải có hướng dẫn cụ thể và yêu cầu các địa phương thực hiện thống nhất, chấm dứt tình trạng điều hành không nhất quán giữa các địa phương. Luồng xanh cho hàng hóa chỉ có thể thông, nếu các địa phương tuân thủ một cách thống nhất. Sự thiếu hụt hàng hóa ở TP.HCM những ngày đầu thực hiện giãn cách là một ví dụ của sự thiếu phối hợp trong tổ chức thực hiện. Cũng đừng trách người dân tích trữ lương thực, vì họ nhìn thấy sự đứt gãy này.
Đặc biệt, lúc này, Chính phủ cần lưu tâm các chính sách điều hành để kiểm soát tốt lạm phát. Chi phí sản xuất đang tăng mạnh. Tính đến tháng 6/2021, giá hàng hóa phi nhiên liệu tăng 38,25% so với cách đây một năm. Trong đó, giá nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất công nghiệp tăng 68,58%, giá nguyên liệu nông nghiệp thô tăng 28,44%, giá nhiên liệu tăng 108,28%...
Trong nước, giá thuê đất tại các khu công nghiệp đang tăng nhanh. Trong quý II/2021, trung bình giá thuê đất tại khu công nghiệp thuộc các tỉnh phía Bắc là 107 USD/m2, tăng 8,1% so với cùng kỳ năm ngoái; giá tại các tỉnh phía Nam là 111 USD/m2, tăng 8,2%. Việc tăng giá này sẽ dần được chuyển vào giá tiêu dùng trong những tháng cuối năm, tạo áp lực cho lạm phát.
Bên cạnh đó, sự đứt gãy trong chuỗi cung ứng do các biện pháp phòng chống bệnh dịch, cũng như nhu cầu hồi phục khi dịch bệnh được khống chế sẽ tác động đến lạm phát. Khống chế lạm phát ở mức thấp để có dư địa cho lãi suất ngân hàng duy trì ở mức thấp, tạo cơ hội cho doanh nghiệp tiếp cận được tín dụng.
Vì vậy, dù nợ xấu tiềm ẩn rất có thể mang lại rủi ro cho hệ thống tín dụng, nhưng các biện pháp kiểm soát rủi ro cần ở mức vừa phải. Đó là thách thức của Chính phủ trong điều hành chính sách tiền tệ.
Với chính sách tài khóa, tôi đề nghị thực hiện các gói tài khóa tập trung vào cung cấp trang thiết bị y tế, đẩy nhanh tiến độ hỗ trợ người lao động mất việc, hỗ trợ kế sinh nhai cho người đân khu vực phi chính thức đang gặp khó khăn. Có thể phải chấp nhận thất thoát một chút do có thể có những người ở ranh giới điều kiện được hưởng hỗ trợ, nhưng miễn là không xảy ra tham nhũng, sai phạm ở tổ chức thực thi, thì cũng nên làm nhanh, để kịp hỗ trợ ngay người dân đang rất khó khăn.
Các dự án đầu công trong các dự án hạ tầng cấp quốc gia cũng cần có giải pháp đẩy nhanh.
Hoa Trần (t/h)
Xem thêm: Đại biểu Vũ Tiến Lộc: Doanh nghiệp đang 'chết mòn' vì Covid-19