Ngân hàng thế giới khuyến nghị 5 giải pháp cho kinh tế Việt Nam
Tại Diễn đàn Cải cách và Phát triển (VRDF) 2020, Ngân hàng thế giới (World Bank) khuyến nghị 5 giải pháp dài hạn giúp Việt Nam nâng cao chuỗi giá trị toàn cầu.
Việt Nam đã phát triển cực kỳ tốt trong giai đoạn sau khủng hoảng toàn cầu 2009-2017 với tốc độ tăng trưởng cao nhất về giá trị chuỗi cung ứng toàn cầu, và nằm trong tốp 5 quốc gia có tốc độ tăng vốn FDI cao nhất. Đặc biệt, Việt Nam đã thành công trong việc hội nhập vào các bản đồ chuỗi giá trị toàn cầu (GVC) chế biến chế tạo nhẹ, thúc đẩy tăng trưởng và gia tăng việc làm.
Tuy nhiên, mức độ tham gia của Việt Nam vào các chuỗi giá trị toàn cầu và khu vực vẫn còn hạn chế. Mặc dù là một trong những nền kinh tế mở nhất trên thế giới, mức độ tham gia của Việt Nam vào các GVC vẫn thấp hơn so với các nước cùng khối ASEAN như Singapore, Thái Lan, Indonesia, Malaysia và Philippines; Mức độ tham gia của Việt Nam vào các công đoạn tinh vi phức tạp vẫn còn thấp.
Dù đã tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu nhưng mức độ tham gia vào các công đoạn tinh vi phức tạp của Việt Nam vẫn còn thấp.
Chia sẻ về vấn đề này, tại VRDF, TS. Jacques Morisset- Chuyên gia kinh tế trưởng, Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam đánh giá, cho đến nay, hội nhập vào các chuỗi giá trị toàn cầu là chiến lược tạo việc làm có thu nhập cho lực lượng lao động đang tăng nhanh. Cho biết các ngành xuất khẩu tạo ra trên 20 triệu việc làm (trực tiếp và gián tiếp), chiếm khoảng 40% lực lượng lao động hiện nay.
Tuy nhiên, hiện Việt Nam đang phải đối diện với nguy cơ về việc các đột phá công nghệ đã, đang và sẽ làm giảm nhu cầu về lao động kỹ năng thấp trong ngành chế biến chế tạo. Ông dẫn chứng về câu chuyện một nhà đầu tư tại Việt Nam trong vòng 10 năm có sản lượng tăng gấp đôi nhưng nhân công giảm 40%. Đối với quốc tế, từ đầu những năm 1990 đến nay, thâm dụng lao động trong ngành điện tử đã giảm một nửa.
TS. Jacques Morisset khuyến nghị Việt Nam cần tập trung vào 5 giải pháp dài hạn, gồm thúc đẩy giáo dục và đào tạo sau trung học, do Việt Nam cần có một lực lượng lao động với năng lực tốt hơn. Thứ hai, tập trụng vào công nghệ mới, R&D (nghiên cứu và phát triển), nhưng trên hết là bắt kịp về công nghệ thông qua nắm bắt công nghệ mới từ các nhà đổi mới sáng tạo toàn cầu bởi nhiều doanh nghiệp trong nước hiện đang tụt hậu trong đổi mới sáng tạo và cải thiện chất lượng.
Thứ ba, cần kết nối Việt Nam với các thị trường toàn cầu nhưng cũng cần cải thiện liên kết giữa các doanh nghiệp tại Việt Nam. Thứ tư, xoá bỏ các rào cản gia nhập và sự thiên vị dành cho các doanh nghiệp nhà nước sẽ nâng cao cạnh tranh và giúp dần cải thiện năng suất cũng như thương mại hàng hoá (các dịch vụ như logistics và tài chính có ảnh hưởng khá lớn) vì theo thời gian ranh giới giữa sản phẩm và dịch vụ ngày càng bị xóa mờ. Thứ năm, quan tâm đến khả năng chống chịu của môi trường để ứng phó với biến đổi khí hậu và cải thiện điều kiện sống.
TS. Jacques Morisset nhìn nhận, Việt Nam đã thúc đẩy thương mại quốc tế nhiều hơn và hội nhập thành công vào các chuỗi giá trị toàn cầu trong các thập niên vừa qua, tạo ra hàng triệu việc làm có năng suất cao hơn - phù hợp với tư duy thông thường.
Tuy nhiên, cuộc đua phát triển kinh tế đang đòi hỏi các ý tưởng mới. Thách thức lớn đối với Việt Nam hiện nay không chỉ là số lượng mà chất lượng của hoạt động thương mại quốc tế, như P. Krugman 40 năm trước đã chỉ ra - cần dịch chuyển theo hướng có các sản phẩm phức tạp hơn, bao gồm cả dịch vụ và mức độ nội địa hoá. Bên cạnh đó, COVID-19 đã nâng cao nhận thức về mức độ cấp thiết, Chính phủ Việt Nam cần hành động dứt khoát với việc triển khai các giải pháp trong ngắn hạn - mà tôi gọi là các xúc tác cho thay đổi, đại diện WB tại Việt Nam nhấn mạnh.
Công nhân Việt Nam đang lắp ráp linh kiện tại nhà máy của Sam Sung.
Cũng trong khuôn khổ Diễn đàn, TS. Jonathan Pincus- Cố vấn quốc tế cao cấp, Chương trình phát triển Liên hiệp quốc (UNDP) cho rằng, Việt Nam vẫn hấp dẫn đối với các công ty đa quốc gia (MNE) đang tìm kiếm các nền tảng xuất khẩu chi phí thấp do tiền lương ở Trung Quốc tăng lên và tranh chấp thương mại với Hoa Kỳ gia tăng.
Theo đại diện UNDP, thách thức đối với chế độ thương mại đa phương sẽ có lợi cho FDI trong khu vực và việc Việt Nam tham gia vào các hiệp định thương mại và đầu tư song phương/khu vực là một điểm đáng quý. Tuy nhiên, FDI mang lại lợi ích, nhưng cũng kéo theo chi phí. Do đó, nhu cầu của Việt Nam là tăng cường năng lực của các doanh nghiệp trong nước nhằm thu được giá trị gia tăng từ các nhà xuất khẩu có vốn FDI.
TS. Jonathan Pincus cũng nhìn nhận, các chuỗi giá trị toàn cầu sẽ tiếp tục thích ứng với các xu thế công nghệ, kinh tế, chính trị và sinh thái. Tuy nhiên, chỉ một số trong những xu thế này có lợi cho Việt Nam với vai trò điểm đến của FDI.
Về dài hạn, tầm quan trọng của FDI trong khu vực sẽ tăng lên. Thách thức ở đây là tăng cường năng lực của doanh nghiêp trong nước trong việc thu được giá trị gia tăng đối với cả doanh nghiệp xuất khẩu có vốn FDI và không có vốn FDI. Do đó, TS. Jonathan Pincus khuyến nghị, Việt Nam cần tập trung xây dựng chính sách công nghiệp và đầu tư cơ sở hạ tầng để xây dựng năng lực trong các ngành tăng trưởng bền vững.
Đông Nghi