TS Lê Xuân Nghĩa: Xuất khẩu năm 2024 đạt 400 tỷ USD nhưng FDI chiếm tới 75%, doanh nghiệp Việt chủ yếu "xuất khẩu hộ"
Phát biểu tại Hội thảo "Xây dựng và Phát huy sức mạnh của đội ngũ doanh nghiệp dân tộc vì khát vọng Việt Nam thịnh vượng" do Reatimes tổ chức sáng 8/10, TS. Lê Xuân Nghĩa, Thành viên Hội đồng tư vấn chính sách Tài chính - Tiền tệ Quốc gia chỉ ra một thực tế rằng, Việt Nam có kim ngạch xuất khẩu lớn nhưng chủ yếu vẫn là "xuất khẩu hộ".
Ông nói: "Thế giới biết đến doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu là trong lĩnh vực xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá năm 2024 của nước ta đạt hơn 400 tỷ USD nhưng khu vực FDI chiếm tới 75%, doanh nghiệp Việt chủ yếu "xuất khẩu hộ".

Hội thảo Xây dựng và Phát huy sức mạnh của đội ngũ doanh nghiệp dân tộc vì khát vọng Việt Nam thịnh vượng. (Ảnh: BTC).
Chỉ ra nền kinh tế Việt Nam vẫn đang tồn tại nhiều vấn đề: Giá trị gia tăng thấp, phụ thuộc nhập khẩu nguyên liệu, thiếu công nghệ lõi, TS. Lê Xuân Nghĩa nêu ra định hướng tiên quyết.
Thứ nhất, muốn tự lực, tự cường, doanh nghiệp Việt phải làm chủ công nghệ, phát triển công nghiệp chế tạo bằng nội lực doanh nghiệp dân tộc.
Thứ hai, không thể mạnh nếu chỉ dựa vào thương mại hay bất động sản; phải có trụ cột sản xuất, chế tạo và công nghệ.
Thứ ba, riêng lĩnh vực bất động sản cần: Từ kênh đầu tư ngắn hạn sang nền tảng hạ tầng cho công nghiệp hóa và đô thị hóa bền vững. Cụ thể, cần đẩy mạnh phát triển bất động sản công nghiệp, đô thị, công nghệ gắn với chiến lược sản xuất và đổi mới sáng tạo; quan tâm phát triển nhà ở thương mại vừa túi tiền.
"Hãy nhìn vào bài học thành công của Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc khi thu hút FDI bằng lợi thế công nghệ. Trong khi đó, Việt Nam và Malaysia 'mở toang thị trường', 'lôi kéo tối đa' nhưng vẫn kém hấp dẫn với các nhà đầu tư lớn do thị trường còn non trẻ, thiếu lợi thế cạnh tranh", chuyên gia cho biết.
Theo ông, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 68 về phát triển kinh tế tư nhân là bước ngoặt lịch sử, khẳng định kinh tế tư nhân là động lực quan trọng nhất của nền kinh tế. Tuy nhiên, cần tạo mọi điều kiện để doanh nhân dân tộc trở thành lực lượng nòng cốt trong công cuộc tự lực, tự cường, công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
Vượt qua rào cản trong tư duy: Doanh nghiệp tư nhân là “con nuôi”, doanh nghiệp nhà nước là “con đẻ”
Trong một góc nhìn khác, GS.TSKH.NGND. Vũ Minh Giang - Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam; Chủ tịch Hội đồng Khoa học và Đào tạo, Đại học Quốc gia Hà Nội phân tích: "Trước đây, trong một số chính sách, ta từng vô tình loại bỏ hoặc làm khó những đối tác nước ngoài, chẳng hạn như các doanh nghiệp Nga, dù họ có những đóng góp thực sự tích cực cho Việt Nam. Cách làm ấy không còn phù hợp và thực tế là sau đó chúng ta đã phải sửa đổi chính sách". Từ đó, vị này nhận định: "Bất kỳ ai, bất kỳ doanh nghiệp nào, kể cả nước ngoài, nếu mang lại lợi ích cho đất nước, cho người dân, thì đều đáng được khuyến khích và hỗ trợ".
Do đó, vị này đề xuất: Về mặt pháp lý, trước hết phải dựa trên nhiệm vụ được giao và khung thể chế minh bạch. Thứ hai, không nên giới hạn quy mô “doanh nghiệp dân tộc” trong phạm vi doanh nghiệp lớn, bởi như thế sẽ vô tình làm thiệt thòi cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, vốn là lực lượng rất năng động và chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế. Đặc biệt, trong bối cảnh mở rộng quan hệ quốc tế, nếu chúng ta vẫn giữ cách tiếp cận cũ thì sẽ tự tạo ra bất lợi cho mình trong dòng chảy giao thương toàn cầu.
PGS.TS. Nguyễn Quang Tuyến, Phó Chủ tịch Hội đồng Trường, Trưởng khoa Pháp luật Kinh tế, Trường Đại học Luật Hà Nội cho rằng, trên thực tế, vẫn có sự phân biệt giữa các doanh nghiệp.
"Chúng ta nói rằng các doanh nghiệp, thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật nhưng doanh nghiệp nhà nước lại giữ vai trò chủ đạo. Đây là vấn đề rất mâu thuẫn. Không chỉ vậy, doanh nghiệp dân tộc hay doanh nghiệp tư nhân ở góc độ nào đó vẫn có sự phân biệt. Ta phải vượt qua được rào cản trong tư duy: Doanh nghiệp tư nhân là “con nuôi”, doanh nghiệp nhà nước là “con đẻ”,PGS.TS. Nguyễn Quang Tuyến nói.
Về chính sách, để thực hiện được Nghị quyết 68, chúng ta cần lựa chọn doanh nghiệp tư nhân tiêu biểu, có chính sách từ phía Nhà nước để hỗ trợ các doanh nghiệp tư nhân phát triển, tạo lợi thế cạnh tranh sòng phẳng trong quá trình hội nhập.
Bên cạnh đó, với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cũng cần xây dựng cơ chế hỗ trợ và thúc đẩy. Thực tế hiện nay, lấy ngay dẫn chứng từ lĩnh vực bất động sản, doanh nghiệp vừa và nhỏ đang rất khó khăn trong khâu tiếp cận đất đai. Chúng ta có trên 900.000 doanh nghiệp nhưng xét về quy mô thì chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ nên không thể không có chính sách thúc đẩy.
Tóm lại, chúng ta cần có chính sách hỗ trợ các tập đoàn lớn như SunGroup, VinGroup, T&T… với vai trò “sếu đầu đàn”, dẫn dắt kinh tế phát triển, vươn mình ra thế giới. Đối với những doanh nghiệp vừa và nhỏ, cần có sự điều chỉnh trong cơ chế hỗ trợ, từ tiếp cận đất đai, vay vốn, tạo môi trường kinh doanh thông thoáng đến đơn giản hoá thủ tục hành chính…