Nhật Bản thông qua dự luật phê chuẩn RCEP và kỳ vọng cho doanh nghiệp Việt
Chính phủ Nhật Bản thông báo đã thông qua dự luật phê chuẩn Hiệp định RCEP. Sự kiện này tạo nhiều kỳ vọng cho doanh nghiệp Việt.
RCEP củng cố vai trò và vị thế của Nhật Bản
Trong ngày 24/2, Chính phủ Nhật Bản thông báo đã thông qua dự luật phê chuẩn Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) mà nước này đã ký với 14 quốc gia Châu Á – Thái Bình Dương hồi tháng 11/2020.
Thủ tướng Nhật Bản Yoshihide Suga và Bộ trưởng Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản Hiroshi Kajiyama trong lễ ký hiệp định RCEP trực tuyến
Dự kiến dự luật này sẽ được Chính phủ Nhật Bản đệ trình lên Quốc hội nước này để thông qua trong kỳ họp hiện nay. Bộ trưởng Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản Hiroshi Kajiyama nhận định Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) sẽ là “nền tảng cho hoạt động thương mại ở châu Á” và bày tỏ hy vọng Quốc hội Nhật Bản sẽ sớm thông qua dự luật để thực hiện RCEP.
RCEP là Hiệp định thương mại đa phương đầu tiên có sự tham gia của Nhật Bản và hai đối tác thương mại lớn nhất của nước này ở Châu Á là Trung Quốc và Hàn Quốc. Tiến trình đàm phán hiệp định thương mại giữa ba quốc gia này hiện vẫn đang diễn ra. Các chuyên gia kinh tế nhận định RCEP có thể tạo ra “cú hích mới” góp phần thúc đẩy tăng trưởng cho nền kinh tế trì trệ của Nhật Bản.
Giới quan sát cũng nhận định một lý do để Nhật Bản thúc đẩy thực hiện RCEP là hiệp định này góp phần củng cố vai trò và vị thế của Nhật Bản trên trường quốc tế với tư cách quốc gia đi đầu trong tự do hóa thương mại ở thời điểm chủ nghĩa bảo hộ đang trỗi dậy ở không ít nền kinh tế lớn trên thế giới.
Với sự tham gia của 15 thành viên gồm Brunei, Malaysia, Singapore, Việt Nam, Campuchia, Indonesia, Lào, Myanmar, Philippines, Thái Lan, Nhật Bản, New Zealand, Australia, Trung Quốc, Hàn Quốc, RCEP sẽ tạo ra thị trường trên quy mô 2,2 tỷ người, tương đương 26.200 tỷ USD, tạo nên khu vực thương mại tự do lớn nhất thế giới.
Nhờ vào cam kết mở cửa thị trường hàng hoá, dịch vụ, đầu tư, quy tắc xuất xứ giá trị trong khu vực địa lý RCEP cùng các biện pháp tạo thuận lợi thương mại, hiệp định thương mại tư do này sẽ tạo cơ hội để phát triển các chuỗi cung ứng mới.
RCEP sẽ giúp loại bỏ 91% thuế hàng hóa và hình thành các quy tắc chung về đầu tư, sở hữu trí tuệ và thương mại điện tử giữa các thành viên trong hiệp định. Hiệp định này được kỳ vọng sẽ giúp phục hồi các chuỗi cung ứng trong khu vực và nâng cao hiệu quả của các chuỗi cung ứng đó cho doanh nghiệp. Theo quy định, RCEP sẽ có hiệu lực sau khi được ít nhất 6 nước thành viên khối ASEAN và 3 nước khác phê chuẩn.
Khi RCEP có hiệu lực, Nhật Bản sẽ xóa bỏ 61% thuế đối với nông sản nhập khẩu từ các nước thành viên ASEAN, Australia và New Zealand, 56% từ Trung Quốc và 49% từ Hàn Quốc, nhưng vẫn giữ nguyên thuế đối với 5 nhóm hàng, gồm gạo, lúa mỳ, các sản phẩm sữa, đường, thịt lợn và thịt bò nhằm bảo vệ nông dân trong nước. Trong khi đó, các quốc gia khác sẽ cắt giảm 91,5% thuế đối với các hàng hóa công nghiệp nhập khẩu từ Nhật Bản.
Các nước tham gia ký kết RCEP hiện đồng ý cho phép Ấn Độ có thể quay lại tham gia hiệp định này mặc dù Ấn Độ đã rút khỏi tiến trình đàm phán về RCEP từ tháng 11/2019. Ấn Độ sẽ không bị áp dụng quy tắc cấm kết nạp thêm thành viên mới trong 18 tháng sau khi hiệp định bắt đầu có hiệu lực.
iệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) được coi là trái ngọt của hơn 8 năm đàm phán, mà trong đó, các nước thành viên ASEAN có vai trò trung tâm, cùng với các đối tác quan trọng Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ, Australia và New Zealand đặt nền móng cho một giai đoạn hợp tác mới có tính toàn diện, lâu dài, mang lại lợi ích cho tất cả các nước trong khu vực.
Đại sứ Việt Nam tại Nhật Bản Vũ Hồng Nam cho rằng, RCEP là minh chứng cho thấy rõ quyết tâm của mỗi quốc gia thành viên trong việc tăng cường hợp tác kinh tế và thúc đẩy thương mại tự do. Hiệp định được kỳ vọng sẽ thúc đẩy mạnh mẽ chuỗi cung ứng của Khu vực và giúp nền kinh tế các nước thành viên như Việt Nam và Nhật Bản phát triển thịnh vượng.
Nhật Bản, Việt Nam, RCEP và mục tiêu thịnh vượng
Đây là tiêu đề bài viết mà baoquocte.vn nhấn mạnh thông qua bài trả lời phỏng vấn của Đại sứ Việt Nam tại Nhật Bản Vũ Hồng Nam.
Theo đó, việc ký kết RCEP được coi là một thắng lợi lớn trong chính sách thương mại của Nhật Bản.
RCEP góp phần củng cố vai trò và vị thế của Nhật Bản trên trường quốc tế với tư cách là quốc gia đi đầu trong việc thúc đẩy tự do hóa thương mại, hình thành nên một trật tự kinh tế quốc tế tự do và mở, như chủ trương đã được cựu Thủ tướng Shinzo Abe nêu ra tại Hội nghị Thượng đỉnh G20 Osaka ngày 28/6/2019, trong đó nhấn mạnh sự cần thiết phải thúc đẩy tự do thương mại và duy trì hệ thống thương mại đa phương. Điều này càng có ý nghĩa trong bối cảnh chủ nghĩa bảo hộ đang trỗi dậy ở không ít quốc gia và trong giai đoạn nền kinh tế toàn cầu đang trì trệ.
Đại sứ Việt Nam tại Nhật Bản Vũ Hồng Nam.
Chính giới và chuyên gia kinh tế Nhật Bản đều hoan nghênh và đánh giá cao việc ký kết RCEP, tin tưởng RCEP sẽ tạo cơ hội mới cho các nhà sản xuất và nông dân Nhật Bản, góp phần đẩy mạnh xuất khẩu của Nhật Bản sang châu Á, là “cú hích” để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Nhật Bản, vốn đang bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi đại dịch Covid-19. Chính phủ Nhật Bản cam kết sẽ nỗ lực để nhanh chóng đưa RCEP đi vào hiệu lực.
Khi chính thức có hiệu lực, doanh nghiệp các nước thành viên, trong đó có Việt Nam và Nhật Bản sẽ được hưởng ưu đãi thuế quan, đơn giản hóa các thủ tục hải quan, cũng như thị trường xuất khẩu được mở rộng. Doanh nghiệp hai bên có thể tiếp cận nguồn nguyên vật liệu của nhau để phục vụ nhu cầu xuất khẩu của mình trong khi đáp ứng nguyên tắc xuất xứ nội khối để có thể tận dụng biểu thuế quan ưu đãi.
Với Nhật Bản, việc tham gia RCEP và thực hiện cắt giảm thuế đối với nhiều mặt hàng trước hết sẽ giúp Nhật Bản tiếp tục theo đuổi chính sách hội nhập, tự do thương mại thông qua đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa, tăng cường và đa dạng hóa chuỗi cung ứng do các công ty Nhật Bản thiết lập ở châu Á, trong đó có Việt Nam. Hiện Nhật Bản là một trong các quốc gia có quy mô đầu tư trực tiếp ra nước ngoài lớn nhất trên thế giới, 14 đối tác của Nhật Bản trong RCEP đang chiếm tới 46% tổng lượng hàng xuất khẩu của Nhật Bản.
Thứ hai, RCEP sẽ là bước tiến quan trọng, mở ra triển vọng nối lại đàm phán, tiến tới ký kết FTA khu vực Đông Bắc Á giữa ba nước Trung-Nhật-Hàn. Khác với các nước ASEAN, trước khi RCEP được ký kết, Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc đã đàm phán để thành lập FTA nhưng cho đến nay vẫn không đạt được kết quả khả quan. RCEP là hiệp định thương mại tự do đa phương đầu tiên mà Nhật Bản tham gia cùng với Trung Quốc và Hàn Quốc, hai đối tác thương mại lớn thứ nhất và thứ ba của Nhật.
Thứ ba, RCEP giúp Nhật Bản phát huy tối đa thế mạnh trong xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp. Việc cắt giảm khoảng 90% các loại thuế sẽ tạo thêm điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư Nhật Bản khi nhập khẩu hàng hóa công nghiệp để mở rộng đầu tư ở Việt Nam, thực hiện chủ trương “đa dạng nguồn cung” mà Nhật Bản đang theo đuổi.
Thứ tư, việc giảm thuế khi nhập khẩu sản phẩm nông nghiệp vào Nhật Bản cũng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty Nhật Bản đầu tư thiết bị, công nghệ vào nông nghiệp công nghệ cao, chế biến nông sản-thực phẩm ở Việt Nam để phục vụ xuất khẩu sang Nhật Bản.
Tuy nhiên, Đại sứ Việt Nam tại Nhật Bản Vũ Hồng Nam cũng nhấn mạnh với baoquocte.vn về cơ hội kèm theo thách thức khi RCEP chính thức đi vào triển khai.
Theo đó, RCEP là Hiệp định thương mại đa phương mới nhất có sự tham gia của cả Việt Nam và Nhật Bản. Cùng với các Hiệp định mà hai nước đã ký kết và tham gia trước đó (Hiệp định đối tác kinh tế song phương Việt Nam-Nhật Bản và cùng tham gia các FTA đa phương ASEAN-Nhật Bản và CPTPP), việc tham gia RCEP sẽ mang đến cả cơ hội hợp tác và thách thức đối với thương mại và đầu tư song phương Việt-Nhật.
Trong bối cảnh Đại dịch Covid-19 gây ra những xáo trộn chưa từng có đối với chuỗi cung ứng cũng như hoạt động sản xuất, kinh doanh, xuất-nhập khẩu, Hiệp định RCEP khi chính thức có hiệu lực sẽ giúp thiết lập thị trường xuất khẩu ổn định lâu dài cho Việt Nam, góp phần triển khai xây dựng nền sản xuất theo định hướng xuất khẩu. Các doanh nghiệp Việt Nam cũng sẽ có nhiều cơ hội tham gia các chuỗi cung ứng mới do Hiệp định RCEP tạo ra. Đặc biệt, chính sách hỗ trợ các công ty chuyển dịch các cơ sở sản xuất đến Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam, của Chính phủ Nhật Bản gần đây nhằm đa dạng hóa chuỗi cung ứng càng khiến Việt Nam trở thành điểm đầu tư hấp dẫn hơn nữa đối với các công ty Nhật Bản.
Sức ép cạnh tranh đối với hàng hóa, dịch vụ của Việt Nam sẽ gia tăng, đặc biệt trong bối cảnh nhiều đối tác trong khu vực có cơ cấu sản phẩm tương đồng với Việt Nam, trong khi năng lực cạnh tranh cao hơn. Để vượt qua thách thức này, doanh nghiệp Việt Nam cần hết sức chú trọng nâng cao chất lượng và hàm lượng giá trị gia tăng trong các sản phẩm của mình. Ngoài ra, việc đầu vào sản xuất phụ thuộc một số nguồn nhập khẩu nhất định, những hạn chế trong việc cải thiện vị trí trong chuỗi giá trị khu vực và mức độ tham gia cung cấp thương mại dịch vụ toàn cầu của Việt Nam cũng là những thách thức mà doanh nghiệp Việt cần tập trung khắc phục để có thể tận dụng tối đa cơ hội do RCEP mang lại.
Nhật Bản hiện là đối tác kinh tế quan trọng hàng đầu của Việt Nam, là đối tác đầu tư chiến lược, nhà đầu tư lớn thứ 2 và đối tác thương mại lớn thứ 4 của Việt Nam. Trong bối cảnh Chính phủ Nhật Bản đang thúc đẩy đa dạng hóa chuỗi cung ứng, dành hơn 2,2 tỷ USD để khuyến khích và hỗ trợ doanh nghiệp chuyển dịch/mở rộng đầu tư trở lại Nhật hoặc dịch chuyển sang các nước Đông Nam Á, Việt Nam càng trở thành điểm đến hấp dẫn với các nhà đầu tư Nhật Bản.
Trong 10 năm trở lại đây, FDI của Nhật Bản đã tăng mạnh, tổng vốn đầu tư đến nay đạt trên 60,2 tỷ USD với hơn 4.600 dự án còn hiệu lực. Hiện có gần 2.000 doanh nghiệp Nhật Bản đang đầu tư tại Việt Nam, nhiều nhất tại khu vực Đông Nam Á và dòng vốn FDI từ Nhật Bản vẫn tiếp tục gia tăng mạnh mẽ. Thương mại hai nước mang đậm tính bổ trợ và công bằng. Dù bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19, kim ngạch thương mại song phương chỉ giảm nhẹ, đạt 35,9 tỷ USD trong 11 tháng đầu năm 2020. Với tổng giá trị nhập khẩu của mỗi bên ngang nhau, hai nước đã xây dựng một hình mẫu bạn hàng bình đẳng, cùng có lợi.
Hiện nay, ngày càng có nhiều nhà đầu tư Nhật Bản chọn Việt Nam là điểm đến đầu tư sau ảnh hưởng bởi dịch Covid-19. Trong 11 tháng đầu năm 2020, bất chấp khó khăn do Covid-19, FDI từ Nhật Bản vào Việt Nam vẫn đạt trên 2,1 tỷ USD với 251 dự án cấp mới. Qua hai lần công bố danh sách các công ty Nhật Bản được xét duyệt nhận hỗ trợ của Chính phủ để chuyển dịch sản xuất sang khu vực Đông Nam Á, Việt Nam là quốc gia được lựa chọn đầu tư và mở rộng đầu tư nhiều nhất. Đặc biệt, trong số 30 doanh nghiệp đầu tiên được xét duyệt nhận hỗ trợ, có tới một nửa số doanh nghiệp trong danh sách đã chọn điểm đến là Việt Nam.
“Thời gian qua, tôi đã gặp gỡ, tiếp xúc với nhiều doanh nghiệp Nhật Bản đã và đang mong muốn đầu tư kinh doanh tại Việt Nam. Trong trao đổi, các doanh nghiệp đều đánh giá rất cao thành tích của Việt Nam trong việc kiểm soát dịch bệnh. Theo kết quả khảo sát của JETRO, cứ ba công ty Nhật Bản được hỏi thì có một công ty quan tâm đến Việt Nam. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp cho biết, tiêu chí an toàn dịch bệnh tại Việt Nam chỉ là một trong các yếu tố góp phần đưa đến các quyết định đầu tư của các doanh nghiệp Nhật”, Đại sứ Vũ Hồng Nam nói.
Cũng theo Đại sứ Việt Vũ Hồng Nam, xác yếu tố khác của Việt Nam được nhà đầu tư Nhật đánh giá cao là tăng trưởng ổn định của nền kinh tế, quy mô thị trường nội địa, giá nhân công hợp lý, nguồn nhân lực có trình độ và khả năng xuất khẩu hàng hóa từ Việt Nam đi các nước thứ ba.
Ngoài ra, nhiều công ty lớn của Nhật Bản từ lâu đã xây dựng chính sách “Trung Quốc + 1” với mục đích đa dạng hóa nguồn cung nhằm giảm sự phụ quá lớn chuỗi cung ứng ở một nước và đại dịch Covid-19 bùng phát đã góp phần đẩy nhanh quá trình này và khu vực được nhắm tới là Đông Nam Á, trong đó Việt Nam là điểm đến hấp dẫn.
Tuy nhiên, các nhà đầu tư Nhật Bản cũng chỉ ra một số điểm mà Việt Nam cần tập trung giải quyết để tăng sức hấp dẫn đầu tư nước ngoài là chi phí nhân công ngày càng tăng, những quan ngại của nhà đầu từ về thủ tục hành chính, chính sách thuế, hệ thống pháp luật, cũng như cơ sở hạ tầng chưa đồng bộ, năng lực cạnh tranh thấp và khó khăn trong thu hút nhân tài có trình độ quản lý.
Minh Hoa