Sức mạnh tài sản vô hình: Khi 'giá trị một thương hiệu có thể gấp 20 lần nhà xưởng'

Trang Mai 14:58 | 11/09/2025 Doanh Nhân Việt Nam trên Doanh Nhân Việt Nam trên
Chia sẻ
Không chỉ là tên gọi hay logo, thương hiệu gắn liền với niềm tin của khách hàng và uy tín tích lũy qua nhiều năm. Khi được bảo hộ và khai thác hiệu quả, tài sản vô hình này trở thành lợi thế then chốt giúp doanh nghiệp mở rộng thị trường, nâng cao giá trị sản phẩm và khẳng định vị thế trên thương trường.

‏‏Doanh nghiệp và nỗi lo chung về bảo vệ tài sản vô hình

‏Chia sẻ với phóng viên bên lề‏‏ Diễn đàn khoa học: “Thể chế hóa đổi mới sáng tạo - Bảo vệ tài sản vô hình theo tinh thần Nghị quyết 68-NQ/TW” tổ chức sáng 11/9, ‏‏ông Phạm Trường Giang, Tổng giám đốc Công ty CP Euro House Việt Nam, cho biết doanh nghiệp đã dành nhiều năm đầu tư nghiên cứu, phát triển sản phẩm, song quá trình đưa sản phẩm ra thị trường gặp nhiều khó khăn do tình trạng sao chép, làm nhái.

Ông Phạm Trường Giang, Tổng giám đốc Công ty CP Euro House Việt Nam. Ảnh: BTC. 

‏Ông Giang chia sẻ: ‏‏“Trong quá trình đăng ký để ra mắt một sản phẩm, chúng tôi đã mất một khoảng thời gian rất lớn. Khi đưa sản phẩm ra thị trường, chúng tôi cũng phải bỏ ra nhiều công sức để giới thiệu đến khách hàng. Tuy nhiên, rất nhiều đối thủ cạnh tranh đã công khai sử dụng sản phẩm của chúng tôi, khiến hoạt động kinh doanh gặp khó khăn, tính sáng tạo bị ảnh hưởng đáng kể, tồn kho cũng tăng lên”.‏

‏Theo lãnh đạo doanh nghiệp, hiện nay còn một số bất cập trong cơ chế xử lý. Cụ thể, ‏‏việc xử lý vi phạm còn phụ thuộc nhiều vào chứng cứ, bắt quả tang hàng hóa vi phạm. Trong nhiều trường hợp, dù đã có kết luận giám định khẳng định hành vi xâm phạm, nhưng cơ quan chức năng vẫn yêu cầu phải “bắt giữ trực tiếp hàng hóa đang lưu thông trên thị trường” mới đủ căn cứ xử lý. Điều này dẫn đến tình trạng doanh nghiệp vi phạm vẫn lách luật bằng cách thay đổi địa điểm sản xuất, phân phối nhỏ lẻ để tránh bị bắt quả tang. Doanh nghiệp bị xâm phạm dù có đủ chứng cứ giám định khoa học vẫn gặp khó trong việc bảo vệ quyền lợi chính đáng.‏

‏Cùng với đó, chế tài xử phạt hành chính còn chưa đủ sức răn đe. Ông Giang cho rằng, mức phạt hiện nay theo quy định tại Nghị định 65/2023/NĐ-CP tuy đã tăng cường, nhưng so với lợi nhuận từ việc sản xuất, kinh doanh hàng hóa xâm phạm thì vẫn còn quá thấp. Nhiều doanh nghiệp vi phạm sẵn sàng nộp phạt rồi tiếp tục tái phạm.‏

‏Cuối cùng là cơ chế phối hợp giữa các cơ quan thực thi còn chồng chéo, thiếu tính chủ động. Cụ thể, các cơ quan như Quản lý thị trường, Thanh tra Bộ Khoa học, Công nghệ, Công an kinh tế… đều có thẩm quyền xử lý, nhưng trên thực tế, việc phối hợp còn phân tán, kéo dài thời gian, làm giảm hiệu quả bảo vệ quyền SHTT.‏

‏Chia sẻ về vấn đề này, ông Bông Hoa Việt, đại diện Công ty cổ phần Nhựa Bình Minh cho biết, thương hiệu không chỉ là một cái tên, logo mà là niềm tin, uy tín và sự gắn bó của người tiêu dùng. Việc xây dựng thương hiệu từ sự tận tâm trong từng sản phẩm, từ hệ thống phân phối rộng khắp, và từ trách nhiệm với xã hội. Tuy nhiên, chính vì giá trị ấy mà thương hiệu trở thành mục tiêu bị xâm phạm, khiến khách hàng nhầm lẫn, ảnh hưởng trực tiếp đến uy tín và quyền lợi hợp pháp của doanh nghiệp. Câu hỏi đặt ra ở đây là “Tại sao một thương hiệu lớn được đăng ký hợp pháp, có lịch sử lâu dài lại có thể bị ‘đánh cắp’ và tồn tại song song trên thị trường?”.‏

‏“Câu chuyện thương hiệu bị đánh cắp không chỉ là nỗi đau doanh nghiệp mà còn là lỗ hổng thể chế. Nếu thể chế mạnh, thực thi quyết liệt, thì thương hiệu Việt sẽ không còn phải “giải trình danh dự” để chứng minh mình là chính chủ”, ông Việt nói.

‏Luật sư: Cần xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo để khai thác giá trị tài sản trí tuệ‏‏

‏Theo Luật sư Mai Thị Thảo, Phó Giám đốc TAT Law Firm, hiện nay, kinh tế tư nhân đóng vai trò động lực quan trọng nhất cho tăng trưởng kinh tế quốc gia, góp phần lớn vào GDP, tạo việc làm, thu ngân sách, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, và tăng cường năng lực cạnh tranh, đồng thời giúp hội nhập quốc tế và phát triển xã hội. Tại Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị đã ghi nhận điều này và chủ trương tập trung phát triển kinh tế tư nhân. Theo đó nghị quyết đã chỉ ra rất nhiều những khó khăn doanh nghiệp tư nhân phải đối mặt, những nguyên nhân kìm hãm sự phát triển của doanh nghiệp.‏

‏Hiện nay, hệ thống pháp luật sở hữu trí tuệ của Việt Nam tương đối đầy đủ, đặc biệt trong bối cảnh đất nước đã tham gia nhiều điều ước quốc tế quan trọng như Hiệp định TRIPS hay CPTPP. Thế nhưng, một nghịch lý vẫn hiện hữu rất rõ: pháp luật không thiếu, nhưng doanh nghiệp vẫn mất thương hiệu.‏

‏Trong thực tiễn, tốc độ sáng tạo của doanh nghiệp luôn nhanh hơn soạn thảo và áp dụng luật. Mỗi ngày có hàng trăm ý tưởng, mô hình kinh doanh, ứng dụng công nghệ và nhãn hiệu mới ra đời, nhưng thủ tục bảo hộ, giám định và xử lý vi phạm vẫn chậm, cứng nhắc, rườm rà và thiếu sự liên thông giữa các cơ quan.‏

‏Một nghịch lý khác là chế tài xử phạt chưa đủ sức răn đe. Có những vụ vi phạm mang lại lợi nhuận hàng chục tỷ đồng, nhưng mức xử phạt hành chính chỉ dừng ở vài chục triệu. Khi chi phí vi phạm thấp hơn lợi nhuận, hành vi xâm phạm không còn là rủi ro mà thậm chí trở thành một “chiến lược kinh doanh”. Điều này nếu không được khắc phục sẽ bào mòn niềm tin vào pháp quyền và môi trường đầu tư.‏

‏Ngoài ra, nhóm doanh nghiệp nhỏ và vừa - vốn chiếm hơn 95% tổng số doanh nghiệp cả nước - lại là những đối tượng yếu thế nhất. Họ thường không có bộ phận pháp chế nội bộ, không đủ chi phí thuê luật sư thường xuyên, thiếu hiểu biết về thủ tục đăng ký bảo hộ, cũng như không đủ sức theo đuổi kiện tụng. Trong cuộc chơi hội nhập, nếu thiếu lá chắn pháp lý, đây sẽ là những doanh nghiệp bị “gạt ra ngoài cuộc” đầu tiên.‏

‏Luật sư Mai Thị Thảo, Phó Giám đốc TAT Law Firm phát biểu tại Diễn đàn. Ảnh: BTC. ‏

‏Từ thực tiễn hành nghề, Luật sư cũng đã chia sẻ về một số vụ việc điển hình thể hiện rất rõ những khoảng trống của hệ thống bảo vệ thương hiệu hiện nay. Trong đó có thể kể đến vụ Nhựa Bình Minh; vụ Công ty Bảo vệ Long Hải; Vụ Gạo ST25…‏

‏Vấn đề không chỉ là hành vi “nhái tên” hay xâm phạm nhãn hiệu, mà nghiêm trọng hơn nằm ở cách hệ thống tư pháp đánh giá chứng cứ trong một vụ xâm phạm thương hiệu. Những yếu tố cốt lõi như lịch sử hoạt động, mức độ nhận diện công chúng, thị phần chi phối và sự gắn bó tâm lý của người tiêu dùng bị xem nhẹ so với các tiêu chí hình thức như “khác một chữ” hay “khác logo”. ‏

‏Theo Luật sư Trương Anh Tú, ‏‏Chủ tịch TAT Law Firm,‏‏ trong nền kinh tế tri thức, sự khác biệt không nằm ở quy mô nhà xưởng, mà nằm ở chỉ số sáng tạo và giá trị tài sản trí tuệ. “Một thương hiệu cà phê có thể được bán với giá gấp 20 lần nhà xưởng của nó. Một phần mềm logistics trị giá 10 triệu USD có thể không có bất kỳ tài sản vật chất nào - chỉ là dòng mã và 1 đội kỹ sư.

Luật sư Trương Anh Tú, ‏‏Chủ tịch TAT Law Firm. Ảnh: BTC. 

"Nhưng thử hỏi: Tại Việt Nam, có bao nhiêu doanh nghiệp được ngân hàng cho vay dựa trên giá trị thương hiệu hay bản quyền?", luật sư Tú đặt câu hỏi và nhấn mạnh: "Vấn đề không nằm ở thị trường, mà nằm ở luật pháp chưa đủ mạnh để công nhận và tài chính hóa các tài sản vô hình”.‏

‏Theo ‏‏Chủ tịch TAT Law Firm, rào cản lớn nhất khiến thị trường định giá và giao dịch tài sản trí tuệ ở Việt Nam chưa phát triển là do chưa hình thành được một thị trường đúng nghĩa.‏

‏Ông phân tích: ‏‏“Ở Việt Nam, sáng chế, phát minh, nhãn hiệu… không được định giá vì thiếu cơ chế. Các công ty thẩm định giá không có phương pháp, ngành tài chính cũng chưa có hướng dẫn thực tế. Chúng ta không bị cấm định giá, nhưng thị trường hóa sở hữu trí tuệ vẫn vướng víu, thiếu trước hụt sau. Trong khi đó, trên thế giới, giá trị thị trường sở hữu trí tuệ đã lên tới 80.000 tỷ USD - hơn cả GDP toàn cầu - chứng minh rằng kho báu lớn nhất của nhân loại nằm ở trí tuệ chứ không phải dưới lòng đất.”‏

‏Theo ông Tú, hiện nay Việt Nam mới chỉ dừng ở bước đăng ký bảo hộ, nhưng chưa có cơ chế đưa tài sản trí tuệ vào lưu thông, thương mại hóa, góp vốn, thế chấp hay huy động vốn. ‏‏“Chúng ta đăng ký xong thì cất hồ sơ vào ngăn kéo, không đem ra thị trường, không bán được, không thế chấp ngân hàng. Chính điều này khiến đổi mới sáng tạo chưa bùng nổ,”‏‏ ông nhận định.‏

‏Để khắc phục, ông nhấn mạnh cần một “cuộc cách mạng thể chế” để hình thành hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, bao gồm từ định giá, vốn hóa, thị trường hóa cho tới sàn giao dịch tài sản trí tuệ. Ông dẫn ví dụ: ‏‏“Mỹ là quốc gia có thị trường sở hữu trí tuệ lớn nhất thế giới, họ sẵn sàng định giá, gọi vốn, đưa sản phẩm trí tuệ ra ngân hàng để nhận vốn và hiện thực hóa ý tưởng. Bên cạnh đó, các nước châu Á như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore cũng đang nổi lên với hệ sinh thái sáng tạo mạnh mẽ mà Việt Nam có thể học hỏi.”‏

‏Về giải pháp trong bối cảnh hiện nay, Luật sư Tú cho biết Việt Nam đang sửa đổi Luật Sở hữu trí tuệ, đạo luật gốc trong lĩnh vực này, song điểm thiếu lớn nhất không nằm ở khung pháp lý mà ở hệ sinh thái hỗ trợ. ‏‏“Chúng ta mới xây được cái nền, nhưng muốn ở được thì còn phải hoàn thiện nội thất. Đổi mới sáng tạo chính là chìa khóa phát triển quốc gia trong kỷ nguyên mới, bởi tài nguyên thiên nhiên sẽ cạn kiệt, chỉ có trí tuệ và khoa học công nghệ mới là con đường bền vững,”‏‏ ông nhấn mạnh.‏