Thị trường vốn không còn nghẽn nhưng vẫn kém hiệu quả

Nguyễn Quang Thuân 10:23 | 13/02/2024 Doanh Nhân Việt Nam trên Doanh Nhân Việt Nam trên
Chia sẻ
Trong năm 2023, ba kênh huy động vốn quan trọng nhất của doanh nghiệp là tín dụng, cổ phiếu trái phiếu doanh doanh nghiệp đều không thật sự hiệu quả. Sau những vụ việc xảy ra trên thị trường tài chính, thị trường chứng khoán trở nên lình xình, trái phiếu doanh nghiệp dù hồi phục nhưng vẫn ở mức thấp còn với nguồn vốn tín dụng thì khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp ngày càng giảm.

Đối với thị trường chứng khoán, mặc dù thanh khoản trong những năm trở lại đây đã cải thiện rất lớn nhờ sự tham gia mạnh mẽ của nhà đầu tư cá nhân trong nước. Tuy nhiên, kênh huy động vốn qua TTCK vẫn còn khá thấp.

Tổng giá trị vốn huy động qua phát hành cổ phần trên TTCK Việt Nam năm 2023 mới chỉ đạt mức 74.800 tỷ đồng giảm 23,4% so với năm 2022 và giảm 35% so với mức đỉnh vào năm 2021. Đây là mức khá khiêm tốn so với nhu cầu vốn, nhất là vốn trung và dài hạn của doanh nghiệp.

Do vậy có thể nói mặc dù kênh vốn này không “nghẽn” nhưng hiệu quả huy động vốn qua kênh thị trường cổ phiếu cũng không cao.

Huy động vốn qua trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) cũng chưa thực sự hiệu quả dù niềm tin nhà đầu tư đã khôi phục trở lại. Tổng giá trị huy động vốn qua kênh TPDN cả chào bán riêng lẻ và chào bán rộng rãi ra công chúng đã đạt 339.500 tỷ đồng, tăng 21% so với năm 2022, nhưng nếu nhìn sâu vào cơ cấu huy động thì 57% giá trị huy động là từ các ngân hàng và tổng giá trị huy động TPDN của các doanh nghiệp ngoài ngân hàng chỉ ở mức 147.200 tỷ đồng cho cả năm 2023 vẫn là mức rất khiêm tốn so với nhu cầu vốn trung và dài hạn.

Đối với kênh vốn nợ ngân hàng, tình trạng “thừa tiền, thiếu vốn” đã diễn ra năm 2023 khi mà thanh khoản của hệ thống ngân hàng khá dồi dào. Nhiều ngân hàng đã có tăng trưởng tín dụng âm đến tận những tháng cận kề cuối năm 2023.

Nguyên nhân chính đó là do sức cầu yếu ở rất nhiều ngành và lĩnh vực ngành nghề trước tác động của sự suy giảm xuất khẩu, cầu tiêu dùng nội địa đã diễn ra trong năm 2023. Điều này đã làm cho một số ngành liên quan giảm nhu cầu vốn không chỉ vốn lưu động phục vụ sản xuất kinh doanh thường xuyên mà cả nhu cầu vốn cho việc mở rộng công suất và thị trường. 

Trong khi đó, những ngành có nhu cầu thâm dụng vốn lớn như bất động sản, phát triển hạ tầng như năng lượng tái tạo,... đã chững lại sau giai đoạn bùng nổ mấy năm trước đó.

Về phía cung tín dụng thì các ngân hàng thương mại cũng chủ động kiểm soát rủi ro tín dụng vào một số ngành thâm dụng vốn lớn như bất động sản và năng lượng tái tạo.

Đơn cử như tín dụng xanh cho lĩnh vực năng lượng tái tạo và năng lượng xanh hiện mới chỉ ở mức khoảng 250 nghìn tỷ đồng vào thời điểm 30/9/2023, theo công bố của NHNN. Con số này chiếm chưa đến 2% tổng dư nợ tín dụng của hệ thống ngân hàng trong khi nhu cầu vốn cho lĩnh vực này là rất lớn, ước mỗi năm khoảng 275 nghìn tỷ đồng nhằm thực hiện phát triển nguồn cung điện theo Quy hoạch Điện 8 của Chính phủ.  

Nhìn chung, các cấu phần của thị trường vốn Việt Nam vẫn cơ bản ổn định nhưng vai trò là kênh huy động vốn dài hạn vẫn còn ở mức thấp so với nhu cầu vốn đầu tư và mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.  

 

Thị trường cổ phiếu và tín dụng năm 2024 được dự báo vẫn sẽ khó khăn do các yếu tố tiêu cực của năm 2023 tiếp diễn kéo dài sang cả năm 2024. Do vậy, muốn tạo sự đột phá cho thị trường vốn thì chỉ có thể trông chờ vào thị trường trái phiếu.

Với mục tiêu nhằm hướng đến khôi phục thị trường này phát triển một cách lành mạnh và bền vững nhằm góp phần khai thông kênh huy động vốn trung và dài hạn của doanh nghiệp và qua đó góp phần phát triển kinh tế trong các năm tới đây, chúng ta cần tiếp tục triển khai các giải pháp tiếp tục phát triển đi vào chiều sâu hơn nữa nhằm khai thông phía cung, hạ tầng trung gian và phát triển cơ sở nhà đầu tư.

Các biện pháp này sẽ là tiền đề để có thể góp phần đưa kênh TPDN phát triển mạnh mẽ hơn nữa nhằm đạt mục tiêu chiếm 20% GDP vào năm 2025 và 25% vào năm 2030 theo như chiến lược phát triển thị trường chứng khoán đến năm 2030 như vừa được Chính phủ phê duyệt vào ngày 29/12/2023.

Trong năm 2024, thị trường TPDN có cơ sở để tiếp tục hồi phục hồi. 

Thứ nhất, nhu cầu huy động vốn trung và dài hạn qua kênh TPDN là rất lớn và để chuẩn bị giai đoạn tăng trưởng tín dụng được dự báo khoảng 15% cho cả năm 2024 như định hướng của NHNN. Ngoài ra, với những tháo gỡ về mặt pháp lý dự án bất động sản thì chúng tôi dự báo sẽ có nhiều doanh nghiệp khôi phục hoạt động phát hành vốn qua kênh TPDN trở lại.

Thứ hai, nhiều doanh nghiệp trong ngành nghề khác như hạ tầng, cấp nước, điện rác, xử lý rác thải hay logistics, hàng tiêu dùng và nhóm sản xuất cũng có kế hoạch phát hành trái phiếu. Thực tế, chúng tôi đang tham gia xếp hạng tín nhiệm hoặc đánh giá tín dụng một số lô trái phiếu có kỳ hạn lên tới 15 và thậm chí 20 năm - đây được xem là điểm nhấn của năm 2024 mà chúng ta sẽ kỳ vọng và khẳng định tầm quan trọng của kênh huy động trái phiếu trong những năm tiếp theo.

Thứ ba, nền tảng mềm của thị trường TPDN đã dần cải thiện, đặc biệt là sau khi trái phiếu riêng lẻ được giao dịch tập trung trên HNX. Điều này không chỉ góp phần tạo thanh khoản cho thị trường này mà còn góp phần cải thiện minh bạch thông tin và đặc biệt là góp phần hình thành đường cong lãi suất cho TPDN.

Hiện mức lợi tức trái phiếu đã được hình thành cho các ngành nghề khác nhau và thay đổi theo mức xếp hạng tín nhiệm của doanh nghiệp cũng như chất lượng tín dụng được nhà đầu tư đánh giá dựa trên những thông tin được công bố. Đây là tiền đề cho việc hình thành mức định giá lãi suất khác nhau cho những trái phiếu có độ rủi ro khác nhau.

Điều này sẽ hạn chế tình trạng nhầm lẫn TPDN với tiền gửi ngân hàng hoặc trái phiếu có chất lượng thấp hoặc rủi ro cao nhưng lại được chào bán với lãi suất tương đồng hoặc thậm chí thấp hơn với mức lãi suất của những lô trái phiếu có chất lượng tốt hơn hoặc rủi ro thấp hơn.

Thứ tư, do môi trường lãi suất tiền gửi tại Việt Nam hiện ở mức rất thấp và được dự báo sẽ còn duy trì ở mức thấp trong cả năm 2024 này. Do vậy, nhiều định chế đầu tư bao gồm cả tổ chức tín dụng, quỹ đầu tư, công ty bảo hiểm; nhà đầu tư doanh nghiệp, và các nhà đầu tư có tài sản lớn sẽ xem xét phân bổ một phần tài sản của họ vào những TPDN có mức độ lợi nhuận cao hơn lãi suất tiền gửi và ở một mức rủi ro phù hợp. 

Cuối cùng, chúng ta không thể không kể đến những hỗ trợ chính sách đã và đang thực thi bao gồm tác động của Nghị định 08 đã triển khai trong việc hỗ trợ doanh nghiệp và nhà đầu tư trong việc tái cơ cấu nợ TPDN, Thông tư 03 của NHNN cho phép tổ chức tín dụng được mua lại TPDN trước đó bị hạn chế theo Thông tư 16 về mua bán TPDN.

Thị trường cũng đã làm quen với những yêu cầu mới từ Nghị định 65 về phát hành trái phiếu riêng lẻ, trong đó có yêu cầu mới về nâng chuẩn điều kiện phát hành, định nghĩa và yêu cầu mới đối với nhà đầu tư chuyên nghiệp và việc áp dụng xếp hạng tín nhiệm độc lập.

Ông Nguyễn Quang Thuân, Chủ tịch FiinGroup