Bộ GTVT giải trình về suất đầu tư 12 dự án cao tốc Bắc Nam hơn 201 tỷ đồng/km

Nguyễn Minh Quyết 16:01 | 07/01/2022 Doanh Nhân Việt Nam trên Doanh Nhân Việt Nam trên
Chia sẻ
Bộ Giao thông vận tải đã đặt số liệu sơ bộ tổng mức đầu tư của các dự án cao tốc đã và đang thực hiện để cho thấy suất đầu tư cao tốc Bắc - Nam giai đoạn 2021-2025 không quá cao so với nhiều ý kiến góp ý.

Sau khi dự án cao tốc Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 2021-2025 được Chính phủ trình Quốc hội, nhiều ý kiến cho rằng suất đầu tư được báo cáo đang quá cao, cần xem xét lại. 

Cụ thể, tổng 12 đoạn cao tốc Bắc – Nam trình Quốc hội dài 729 km, nghiên cứu tiền khả thi xác định tổng mức đầu tư khoảng 146.990 tỷ đồng, suất đầu tư bình quân hơn 201 tỷ đồng/km (cả chi phí giải phóng mặt bằng).

Trong khi đó, sau khi so sánh với các tuyến cao tốc đã đưa vào sử dụng và đang làm với quy mô tương tự (trong đó có các đoạn cao tốc Bắc – Nam đang thi công), Kiểm toán Nhà nước tính toán tổng mức đầu tư giảm 16.330 tỷ đồng tổng, chỉ còn 130.604 tỷ đồng, tức suất đầu tư bình quân chỉ còn 179 tỷ đồng/km.

Bộ GTVT giải trình về suất đầu tư 12 dự án cao tốc Bắc Nam hơn 201 tỷ đồng/km. (Ảnh minh họa: Người lao động).  

Theo TTXVN, lý giải về điều này, Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải (GTVT) Nguyễn Văn Thể cho biết, sơ bộ tổng mức đầu tư dự án cao tốc Bắc-Nam phía Đông giai đoạn 2021-2025 đã được tính toán trên cơ sở suất vốn đầu tư xây dựng, dữ liệu chi phí của các dự án tương tự về loại, cấp công trình, quy mô, công suất hoặc năng lực phục vụ, tính chất dự án đã thực hiện.

Đặc biệt là các dự án đường bộ cao tốc trên tuyến Bắc-Nam phía Đông đang triển khai.

Bộ GTVT đã đặt số liệu sơ bộ tổng mức đầu tư của các dự án cao tốc đã và đang thực hiện để cho thấy suất đầu tư cao tốc Bắc - Nam giai đoạn 2021-2025 không quá cao so với nhiều ý kiến góp ý.

Dẫn chứng cụ thể, báo cáo nghiên cứu khả thi được duyệt giai đoạn 2017-2020, 4 dự án thành phần đoạn Mai Sơn (Ninh Bình)-Bãi Vọt (Hà Tĩnh) có suất đầu tư bình quân 190 tỷ đồng/km.

Theo báo cáo nghiên cứu tiền khả thi giai đoạn 2021-2025, 10 dự án thành phần trên đoạn Bãi Vọt (Hà Tĩnh)-Cam Lộ (Quảng Trị) và đoạn Quảng Ngãi-Nha Trang có suất đầu tư bình quân 194 tỷ đồng/km. 

Đoạn Mỹ Thuận - Cần Thơ có suất đầu tư bình quân 210 tỷ đồng/km trong khi đoạn Cần Thơ - Cà Mau có suất đầu tư bình quân 253 tỷ đồng/km (theo báo cáo tiền khả thi).

Bộ GTVT giải thích mặc dù đoạn Mỹ Thuận - Cần Thơ và Cần Thơ - Cà Mau có đặc điểm địa chất tương đồng nhưng số lượng cầu trên đoạn Mỹ Thuận - Cần Thơ chỉ chiếm 4,4% chiều dài, thấp hơn nhiều so với 9,2% chiều dài tuyến trên đoạn Cần Thơ - Hậu Giang.

Bên cạnh đó, theo quy định của pháp luật, Bộ trưởng Thể cho rằng sơ bộ tổng mức đầu tư trong bước nghiên cứu tiền khả thi là cơ sở để ước tính chi phí đầu tư xây dựng, xây dựng kế hoạch vốn; tổng mức đầu tư được phê duyệt trong bước nghiên cứu khả thi làm cơ sở để bố trí vốn. 

Tùy thuộc vào từng giai đoạn, quy định về mức độ chính xác đối với tổng mức đầu tư cũng khác nhau, nên việc so sánh như trên (giữa bước nghiên cứu tiền khả thi so với bước nghiên cứu khả thi) cũng chỉ mang tính chất tương đối.

“Sơ bộ tổng mức đầu tư bước nghiên cứu tiền khả thi luôn mang tính ‘đường bao’ để bảo đảm tổng mức đầu tư bước nghiên cứu khả thi không bị vượt, không phải điều chỉnh chủ trương đầu tư theo quy định pháp luật. Chính vì vậy, sơ bộ tổng mức đầu tư của dự án được xác định theo đúng quy định của pháp luật về xây dựng, đáp ứng độ tin cậy trong bước nghiên cứu tiền khả thi,” Bộ trưởng Thể nhấn mạnh.

Bước tiếp theo, Bộ GTVT sẽ tổ chức khảo sát chi tiết về địa hình, địa chất, thủy văn, điều kiện cung cấp vật liệu xây dựng, trên cơ sở khối lượng theo thiết kế, đơn giá, định mức để làm cơ sở xây dựng tổng mức đầu tư bảo đảm chặt chẽ theo quy định, làm cơ sở để bố trí vốn đầu tư.

Về tiến độ, từ thực tế triển khai cao tốc Bắc - Nam giai đoạn 2017-2020, được phê duyệt chủ trương đầu tư tháng 11/2017, phê duyệt báo cáo khả thi tháng 10/2018, và tới tháng 9/2019 mới khởi công gói thầu đầu tiên.

Trên cơ sở đó, Chính phủ dự kiến tiến độ triển khai chuẩn bị dự án năm 2021-2022; thiết kế kỹ thuật, dự toán và thực hiện giải phóng mặt bằng, tái định cư năm 2022-2023; khởi công năm 2023, cơ bản hoàn thành năm 2025.