Bổ sung biện pháp xử lý khi có sự cố rút tiền hàng loạt ở ngân hàng
Sáng 5/6, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng đại diện Chính phủ trình Quốc hội tờ trình dự án Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi).
Theo Thống đốc, để hạn chế rủi ro từ tập trung tín dụng, hạn chế sở hữu chéo, dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung quy định về giới hạn cấp tín dụng theo hướng giảm tỷ lệ giới hạn cấp tín dụng của một khách hàng, một khách hàng và người có liên quan.
“Việc giảm giới hạn cấp tín dụng thời điểm này không hạn chế nguồn vốn tín dụng cấp cho sản xuất kinh doanh mà ngược lại, giúp cho nhiều khách hàng khác có thể tiếp cận được thêm nguồn vốn tín dụng của ngân hàng”, bà Hồng cho hay.
Trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm một số quốc gia, trong đó có trường hợp xử lý khủng hoảng của Silicon Valley Bank, Signature Bank và First Republic Bank (Mỹ), hoặc trường hợp Ngân hàng Credit Suisse (Thụy Sỹ) và để đảm bảo có cơ chế ứng phó kịp thời khi phát sinh trường hợp tổ chức tín dụng (TCTD) bị rút tiền hàng loạt có nguy cơ ảnh hưởng, đe dọa an toàn hệ thống, dự thảo Luật bổ sung quy định về các biện pháp xử lý khi có sự cố rút tiền hàng loạt.
Bên cạnh đó, dự thảo cũng quy định về thủ tục thu giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu: Việc luật hóa quy định về thủ tục thu giữ tài sản bảo đảm tại luật bảo đảm nguyên tắc tôn trọng thỏa thuận tự nguyện, hợp pháp giữa TCTD và bên có tài sản bảo đảm, trong đó điều kiện tiên quyết là có sự đồng ý cho phép thu giữ tài sản của chủ tài sản.
Bên cạnh đó, việc thu giữ tài sản bảo đảm không phải thu giữ “vô điều kiện” mà tổ chức thực hiện thu giữ phải tuân thủ pháp luật và các điều kiện thu giữ quy định tại Luật.
Đại diện cơ quan thẩm tra, Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh cho biết, các biện pháp nêu tại Điều 148 của dự thảo Luật chỉ bao gồm các biện pháp hỗ trợ từ “bên ngoài” (chủ yếu từ NHNN) mà chưa có những biện pháp “tự thân” của TCTD để nhanh chóng khắc phục tình trạng rút tiền hàng loạt (như vấn đề chuẩn bị tiền mặt, xử lý truyền thông, phối hợp cơ quan chức năng, bảo đảm ổn định trật tự, an toàn tại điểm giao dịch... và sau đó là củng cố quản trị, điều hành, năng lực tài chính của TCTD để ổn định lại hoạt động).
Mặt khác, đi kèm với hỗ trợ từ phía NHNN là quy định về việc được phép sử dụng khoản dự phòng rủi ro để xử lý đối với khoản phải thu không thu hồi được phát sinh từ các biện pháp hỗ trợ TCTD có thể dẫn đến tâm lý ỷ lại của TCTD, làm hạn chế động lực phải khắc phục ngay khó khăn trước mắt cũng như có những giải pháp ổn định trong lâu dài của TCTD.
Báo cáo cho hay, có ý kiến đại biểu đề nghị làm rõ mối liên hệ, sự tương quan giữa biện pháp can thiệp trong trường hợp TCTD bị rút tiền hàng loạt (Điều 148) với các biện pháp can thiệp sớm (Điều 145) vì trường hợp TCTD bị rút tiền hàng loạt là một trong các trường hợp áp dụng biện pháp can thiệp sớm nhưng hiện đang quy định hai biện pháp riêng.
Ủy ban Kinh tế thấy rằng sự cố rút tiền hàng loạt đòi hỏi phải xử lý khẩn trương, nhanh chóng, kịp thời, khác với các trường hợp TCTD yếu kém qua theo dõi phải được can thiệp.
Do vậy, đề nghị rà soát lại các quy định có liên quan đến các biện pháp can thiệp sớm và biện pháp TCTD bị rút tiền hàng loạt; nghiên cứu quy định cụ thể hơn tại dự thảo Luật các biện pháp can thiệp trong trường hợp TCTD bị rút tiền hàng loạt, bao gồm các biện pháp từ chính TCTD và từ phía NHNN, các cơ quan quản lý nhà nước; bảo đảm rõ vai trò, trách nhiệm của các bên cũng như các biện pháp hiệu quả, phù hợp.
Có ý kiến cho rằng về mặt kỹ thuật, việc chỉ quy định 01 Điều 148 tại Mục 2 là không hợp lý, đề nghị nghiên cứu bảo đảm chặt chẽ, logic và đầy đủ.
Về phương án chuyển giao bắt buộc ngân hàng thương mại được kiểm soát đặc biệt, Ủy ban Kinh tế đề nghị báo cáo rõ thêm về tình hình xử lý các TCTD mua bắt buộc và đặt vào kiểm soát đặc biệt trong thời gian qua (bao gồm cả việc kiểm soát đặc biệt các quỹ tín dụng nhân dân); làm rõ các nguyên nhân của việc chậm trễ trong quá trình triển khai xử lý các ngân hàng mua bắt buộc và ngân hàng đặt vào kiểm soát đặc biệt; lý do chưa đề xuất những biện pháp mạnh như giải thể, phá sản, dẫn đến quy mô huy động vốn trong cư dân ngày càng lớn, tác động càng nhiều đến an toàn hệ thống, Nhà nước phải can thiệp. Từ đó có cơ sở xem xét sự phù hợp của các giải pháp đưa ra đối với các TCTD được kiểm soát đặc biệt.
"Có ý kiến đề nghị làm rõ vai trò, trách nhiệm, nhất là trách nhiệm dân sự của người quản lý, người điều hành của TCTD khi để tổ chức tín dụng mất thanh khoản phải kiểm soát đặc biệt và từ đó phải chuyển giao bắt buộc hoặc giải thể, phá sản", Uỷ ban Kinh tế nêu.
Liên quan đến xử lý nợ xấu, báo cáo thẩm tra của Uỷ ban Kinh tế đề nghị rà soát, cân nhắc kỹ lưỡng, phân loại nợ xấu để áp dụng cơ chế xử lý phù hợp. Nhất là đối với các khoản nợ xấu được hạch toán trong bảng cân đối kế toán của tổ chức tín dụng nhưng chưa đến mức độ khó thu hồi hoặc cần phải xử lý tài sản bảo đảm hoặc nợ xấu của khoản vay không đúng quy định.
Về thủ tục thu giữ tài sản bảo đảm, một số ý kiến cho rằng việc quy định thủ tục thu giữ là cần thiết để xử lý được khó khăn, vướng mắc của tổ chức tín dụng trong quá trình xử lý. Nhất là khi xử lý tố tụng qua Tòa án mất nhiều thời gian, từ đó tác động tích cực cho nền kinh tế.
Ngoài ra, có ý kiến đề nghị cần làm rõ bản chất, mục tiêu, điều kiện và phạm vi thực hiện quyền thu giữ tài sản bảo đảm và vai trò của cơ quan nhà nước tham gia trong việc thu giữ tài sản bảo đảm. Bảo đảm phù hợp với Hiến pháp và các luật có liên quan, tránh lạm dụng và gây tổn hại lợi ích hợp pháp của người đi vay.